Một Số Vấn Đề Cần Lưu Ý Khi Sử Dụng Kháng Sinh
Ts. Võ Thị Trà An
Lưu ý khi sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi. |
2. Không sử dụng kháng sinh cho các trường hợp nhiễm khuẩn nhẹ. Có nhiều ca nhiễm khuẩn nhẹ, cơ thể có thể tự chống đỡ mà không cần sử dụng kháng sinh. Ví dụ, một trong những sai lầm phổ biến tại các trại chăn nuôi không có kỹ thuật viên thú y là việc sử dụng kháng sinh ngay lập tức cho heo con tiêu chảy. Lưu ý rằng, có nhiều heo con đi phân lỏng trong ngày thứ nhất nhưng hết triệu chứng này ở ngày thứ hai mà không cần bất kỳ biện pháp can thiệp nào bởi vì tiêu chảy, bản thân nó là một phản ứng của cơ thể nhằm tống các chất bất lợi ra khỏi lòng ruột. Hoặc những trường hợp tổn thương nhẹ trên da, mô mềm cũng không nhất thiết phải sử dụng kháng sinh mà có thể chỉ dùng thuốc sát trùng tại chỗ. Việc sử dụng kháng sinh tràn lan mà bỏ quên sát trùng, khử trùng trong chăn nuôi không những không đem lại hiệu quả mà còn là một trong những nguyên nhân phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn.
3. Nếu có thể, ưu tiên dùng kháng sinh tác động tại chỗ hơn là toàn thân. Việc dùng kháng sinh toàn thân ưu tiên cho các ca nhiễm trùng nặng. Ví dụ, nên sử dụng kháng sinh qua đường tiêu hóa (ăn, uống) cho các ca tiêu chảy do vi khuẩn, nhất là các kháng sinh không hấp thu qua ruột mà chỉ tác động đến các vi khuẩn tại ruột (nhóm aminoside dùng đường tiêu hóa, colistin). Trong khi đó nhiễm khuẩn ở đường hô hấp dưới như viêm phổi, viêm phế quản cần được khống chế bằng kháng sinh tác động toàn thân, nhất là các kháng sinh có mức độ tập trung vào phổi cao (nhóm aminoside dùng đường tiêm tĩnh mạch hoặc bắp cơ, nhóm quinolone, nhóm macrolide, nhóm tetracycline).
4. Không sử dụng kháng sinh phổ rộng nếu vi khuẩn gây nhiễm trùng nhạy cảm với một vài kháng sinh phổ hẹp. Ví dụ, điều trị viêm vú trên bò sữa người ta thường dùng nhóm penicillin, novobiocin vì đa số các ca viêm vú được xác định hầu hết là do vi khuẩn Gram dương nhóm tụ cầu (staphylococci) và liên cầu (streptococci). Nhiễm trùng đường tiết niệu ở chó mèo thường do vi khuẩn Gram âm E.coli và vi khuẩn Gram dương staphylococci, streptococci nên kháng sinh ưu tiên cho những ca này là amoxicillin, sulfonamide phối hợp với trimethoprim. Nhiễm trùng hô hấp do Mycoplasma ở gà, heo có thể kiểm soát bằng tiamulin, lincomycin, macrolide hoặc các teracycline.
5. Việc chọn lựa kháng sinh cần căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh thông qua các triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng như phân lập vi khuẩn, xác định tính nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh, chẩn đoán vi thể mô bệnh học hoặc huyết thanh học, PCR…Kết quả chẩn đoán cần được xác định bởi phòng thí nghiệm. Kết quả xét nghiệm cũng phụ thuộc rất lớn vào việc lấy mẫu. Ví dụ, đối với phân lập vi khuẩn, nếu con vật đã được cho ăn, uống hoặc tiêm kháng sinh trước đó thì sẽ rất khó hoặc không phát hiện được vi khuẩn gây ra căn bệnh vì một số lượng lớn đã bị kháng sinh ức chế. Quy trình xác định tính nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh (ví dụ, phương pháp khuếch tán trên thạch hoặc xác định nồng độ ức chế tối thiểu) cũng phải theo quy chuẩn và luôn thực hiện với vi khuẩn đối chứng để đảm bảo độ chính xác của các kết quả.
6. Cần lưu ý các thông số dược động học để chọn kháng sinh mà mầm bệnh vẫn còn nhạy cảm và kháng sinh có khả năng tập trung vào mô bệnh, ít gây tác dụng phụ cho con bệnh. Thời gian ngưng thuốc cho thú trước khi giết mổ hoặc cho thú sản xuất trứng, sữa cũng là một yếu tố cần cân nhắc khi sử dụng kháng sinh cho nhóm vật nuôi này. Ví dụ, kháng sinh nhóm aminoside có thời gian ngưng thuốc rất dài nếu dùng đường tiêm, nên thận trọng khi sử dụng trên đối tượng gần xuất bán thịt bởi vì sự tồn dư nhóm kháng sinh này trong sản phẩm động vật có thể gây độc (thận và thính giác) cho người tiêu dùng.
Xem thêm:
Xem thêm:
Receive articles via Email!