Hệ Sinh Dục Của Gia Cầm
Hệ thống sinh dục của gia cầm. |
1. Sinh lý sinh dục con mái
Sự hình thành mầm của tuyến sinh dục cái xảy ra vào thời kỳ đầu của sự phát triển phôi: phôi gà vào ngày thứ 3, ở vịt và ngỗng ngày thứ 4 - 5. Thời kỳ phân biệt bộ sinh dục ở phôi gà được nhận thấy vào ngày ấp thứ 6 - 9. Tới ngày ấp thứ 9, ở buồng trứng đã thể hiện sự không đối xứng, buồng trứng bên phải ngừng phát triển và thoái hoá dần. Buồng trứng trái tiếp tục phát triển, phân ra thành lớp vỏ và lớp tuỷ. Ở vỏ xảy ra quá trình sinh sản của các tế bào sinh dục đầu tiên - noãn bào. Vào ngày thứ 9, ở phôi gà đếm được 28 nghìn, ngày thứ 17 - 680 nghìn, đến cuối kỳ ấp số lượng chúng giảm còn 480 nghìn tế bào sinh dục. Đến ngày ấp thứ 12, ống dẫn trứng được phân thành loa kèn, phần tiết lòng trắng và tử cung.
Buồng trứng nằm ở phía trái của khoang bụng, về phía trước và hơi thấp hơn thận trái, được đỡ bằng các nếp gấp của màng bụng từ trên xuống. Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào trạng thái chức năng và tuổi gia cầm. Ở gà con 1 ngày tuổi, buồng trứng có dạng phiến mỏng, kích thước 1 - 2 mm với khối lượng 0,03g, còn 4 tháng tuổi - phiến hình thoi có khối lượng 2,66g. Gà trong thời kỳ đẻ mạnh, buồng trứng có hình chùm nho, khối lượng đạt 55g, vào thời kỳ thay lông, khối lượng buồng trứng giảm còn 5g.
Buồng trứng có miền vỏ và miền tuỷ. Bề mặt vỏ được phủ bằng một lớp biểu mô có lớp tế bào hình trụ hay lăng trụ thấp. Dưới chúng có 2 lớp nang với các tế bào trứng. Nằm ở lớp ngoài là những nang nhỏ có đường kính đến 400 micron, trong lớp sâu hơn có những nang lớn hơn với đường kính 800 micron hay to hơn.
Chất tuỷ được cấu tạo từ mô liên kết, có nhiều mạch máu và dây thần kinh. Trong chất tuỷ có những khoang được phủ bằng biểu mô dẹt và tế bào kẽ.
a. Sự tạo trứng
Sự phát triển tế bào trứng có 3 thời kỳ: sinh sản, sinh trưởng và chín... Quá trình phát triển tế bào sinh dục cái xảy ra không chỉ là sự thay đổi cấu trúc và kích thước của nó mà còn thay đổi cả bộ máy thể nhiễm sắc của nhân tế bào.
Thời kỳ sinh sản xảy ra trong quá trình phát triển phôi và kết thúc khi gà nở. Như đã kể trên, do kết qủa của rất nhiều lần phân chia liên tiếp, số lượng noãn nguyên bào trong buồng trứng đạt đến 480 000 chiếc, nhưng phần lớn các noãn bào này bị thoái hoá nên đến khi thành thục, số lượng của chúng bị giảm đi rất nhiều. Trước khi bắt đầu đẻ trứng, trong buồng trứng gà mái đếm được 3500 - 4000 noãn bào, ở thuỷ cầm 1250 - 1500. Khác với tế bào sinh trưởng, trong noãn bào có nhân to với hạt nhân nhỏ và thể nhiễm sắc, không có trung thể. Sau khi kết thúc quá trình sinh sản, các tế bào sinh dục được hình thành gọi là noãn bào cấp I.
Thời kỳ sinh trưởng được chia thành thời kỳ sinh trưởng nhỏ và thời kỳ sinh trưởng lớn. Thời kỳ sinh trưởng nhỏ kéo dài từ khi gà nở đến khi thành thục sinh dục. Đầu tiên là sự phát triển chậm của noãn bào cấp I. Ở gà 1 ngày tuổi, đường kính noãn bào chỉ là 0,01 - 0,02mm, tới 45 ngày tuổi nó đạt 1mm. Thời gian này, nhân vẫn nằm ở trung tâm tế bào trứng, sau đó tương bào được chuyển sang bên cạnh và tạo đĩa phôi. Ở gà con 2 tháng tuổi, quá trình tích luỹ lòng đỏ trong tương bào bắt đầu. Lòng đỏ được đắp vào bởi những lớp màu sáng và màu sẫm. Ở tâm có lòng đỏ sáng hình phễu, từ nó có vệt nhỏ đi ra rìa tế bào trứng - đó là rãnh lòng đỏ. Phía trên lòng đỏ là đĩa phôi. Các tế bào nang xung quanh noãn bào đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lòng đỏ.
Thời kỳ sinh trưởng lớn dài 4 - 13 ngày và đặc trưng bằng sự lớn rất nhanh của lòng đỏ. Trong thời gian này lòng đỏ tích lỹ 90 - 95% vật chất, thành phần của nó gồm protein, photpholipit, mỡ trung tính, các chất khoáng và vitamin. Đặc biệt, lòng đỏ được tích luỹ mạnh nhất ở ngày thứ 9 đến ngày thứ 4 trước khi trứng rụng. Vào thời kỳ này trên bề mặt tế bào trứng hình thành lớp vỏ lòng đỏ đàn hồi với một hệ mao mạch phát triển, chúng mang chất dinh dưỡng đi vào lòng đỏ làm cho nó lớn lên rất nhanh. Việc tạo lòng đỏ có tính chu kỳ. Lòng đỏ sẫm được tích luỹ trong cả ngày đến nửa đêm, khi nồng độ cảoten trong máu còn cao; còn lòng đỏ sáng - trong phần còn lại của đêm, khi lượng sắc tố trong máu đã giảm đi rất nhiều. Việc tăng quá trình sinh trưởng của tế bào trứng là do ảnh hưởng của foliculin, việc chế tiết nó ở buồng trứng tăng đồng thời với lúc bắt đầu thành thục sinh dục. Vào cuối thời kỳ phát triển của tế bào trứng, giữa vỏ lòng đỏ và thành nang xuất hiện khoang gần lòng đỏ, chứa đầy limpho. Trong đó noãn bào bơi tự do và các cực của nó nằm theo cực hướng tâm: cực anivan (cùng đĩa phôi) hướng lên trên, còn cực thực vật xuống dưới. Noãn bào đã hình thành của gà mái chính là lòng đỏ, có đường kính 35 - 40mm. Màu của lòng đỏ phụ thuộc vào các sắc tố trong máu: carotenoit, carotin và xant°Fil. Màu đậm nhất của lòng đỏ thường gặp ở gia cầm được ăn đầy đủ carotenoit trong thức ăn.
Thời kỳ chín của noãn bào: xảy ra 2 lần phân chia liên tiếp của tế bào sinh dục, số nhiễm sắc thể giảm đi 2 lần, vì vậy sự phân chia này được gọi là giảm nhiễm hay phân bào giảm nhiễm. Trước khi bắt đầu phân chia chia lần thứ nhất, trong nhân của noãn bào cấp I (noãn nguyên bào) xảy ra việc kéo dài nhiễm sắc thể và số lượng của chúng tăng gấp đôi. Nhân tiến dần đến bề mặt của noãn bào. Những nhiễm sắc thể giống nhau xích gần nhau để tạo thành từng cặp, còn màng nhân biến mất. Kết quả lần phân chia thứ nhất tạo thành 2 tế bào: noãn bào cấp II và tiểu thể thứ nhất (thể cực thứ nhất) mà trong hạt nhân của chúng có bộ nhiễm sắc thể 1n. Quá trình này được hoàn thành ở buồng trứng trước khi trứng rụng. Sự phân chia lần thứ hai ở phễu của ống dẫn trứng. Khi đó từ noãn bào cấp II tạo nên tế bào trứng chín và tiểu thể thứ hai (cực cầu) cũng có bộ nhiễm sắc thể đơn bội 1n. Như vậy, do kết quả phân chia giảm nhiễm, trong tế bào trứng chín có một nửa số nhiễm sắc thể. Tiểu thể thứ nhất có thể phân chia làm hai cực cầu khác. Các cực cầu không phát triển và dần dần bị tiêu biến.
Quá trình thoát khỏi buồng trứng của tế bào trứng chín gọi là sự rụng trứng. Trong nang đã chín, áp suất thẩm thấu của dịch nang tăng lên, dẫn tới sự phá vỡ vách nang tại vùng lỗ thở (đai trứng – stigma) - chỗ đối diện với đĩa phôi, vách nang mỏng đi do những thay đổi thoái hoá dưới tác dụng của các hocmon, nên nó bị vỡ ra. Có ý kiến khác cho rằng, lỗ thở bị kéo ra bằng các sợi cơ riêng, khi đó các mạch máu ở vùng lỗ thở co lại và nang vỡ không bị chảy máu. Nang vỡ trong khoảnh khắc. Qua kẽ nứt mới được tạo ra, tế bào trứng rơi vào loa kèn hay là phễu của ống dẫn trứng. Do chuyển động liên tục của thành phễu mà phễu thu được trứng ở đây. Nếu có tinh trùng thì việc thụ tinh tế bào trứng sẽ xảy ra ở ngay trên thành phễu.
Sự rụng trứng ở gà xảy ra một lần trong ngày, thường là sau khi gà đẻ trứng 30 phút. Nếu gà đẻ sau 16 giờ thì sự rụng trứng sẽ chuyển đến buổi sáng ngày hôm sau nữa. Trứng bị giữ lại trong ống dẫn trứng làm ngừng trệ sự rụng trứng tiếp theo. Nếu lấy trứng ra khỏi tử cung, thì cũng không làm tăng nhanh sự rụng trứng được. Sự rụng trứng ở gà thường xảy ra trong thời gian từ 2 tới 14 giờ hàng ngày.
Tính chu kỳ của sự rụng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc, lứa tuổi và trạng thái sinh lý của gia cầm... việc nuôi dưỡng kém, không đủ ánh sáng và nhiệt độ không khí trong chuồng cao cũng làm chậm sự rụng trứng và đẻ trứng. Người ta đã biết được mối liên quan giữa việc rụng trứng và chế độ ngày chiếu sáng. Nếu nuôi gà ban ngày trong nhà tối, còn ban đêm cho ánh sáng nhân tạo, thì sự rụng trứng và đẻ trứng sẽ chuyển sang ban đêm.
Sự rụng trứng ở gia cầm chịu sự điều khiển của các nhân tố hocmon. Các hocmon FSH và LH kích thích sự sinh trưởng và sự chín của các tế bào sinh dục trong buồng trứng. Phần mình, các tế bào nang tiết estron trong khi trứng rụng, kích thích hoạt động của ống dẫn trứng. Estron ảnh hưởng lên tuyến yên, ức chế việc tiết FSH, như vậy sẽ làm chậm việc chín tế bào trứng ở buồng trứng. Hocmon LH điều khiển việc rụng trứng của gia cầm. Tuyến yên ngừng tiết nó khi trong ống dẫn trứng có trứng, do đó ức chế sự rụng trứng của tế bào trứng chín tiếp theo. LH chỉ được tiết vào buổi tối, sự chiếu sáng làm ngừng trệ việc tiết nó, do vậy, sự rụng trứng sẽ bị ngừng lại. Người ta cho rằng ở gà từ lúc bắt đầu tiết LH đến lúc rụng trứng kéo dài khoảng 6 - 8 giờ. Vì vậy việc chiếu sáng thêm vào các giờ buổi chiều và tối làm chậm việc tiết LH, do đó làm chậm quá trình rụng và đẻ trứng 3 - 4 giờ. Tăng giờ chiếu sáng lên 14- 17 giờ/ ngày làm tăng sản lượng trứng của gia cầm mái nhưng không nên tăng vào buổi chiều và buổt tối là vì vậy.
b. Chức năng của ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng có hình ống, ở đó xảy ra việc thụ tinh và hình thành vỏ trứng. Kích thước ống dẫn trứng thay đổi theo lứa tuổi và tình trạng hoạt động của hệ sinh dục. Khi bắt đầu thành thục sinh dục, ống dẫn trứng là một ống trơn, thẳng có đường kính như nhau trên toàn bộ ống. Sau khi đẻ quả trứng đầu tiên, ống dẫn trứng của gà có chiều dài 68 cm, khối lượng 77g. Vào thời kỳ đẻ trứng mạnh, chiều dài của nó tăng tới 86cm, còn đường kính đến 10cm. Ở gà không đẻ trứng, chiều dài ống dẫn trứng giảm đến 11 - 18cm, đường kính 0,4 - 0,7cm, còn thời kỳ thay lông, chiều dài là 17cm.
Ở gia cầm thành thục sinh dục, ống dẫn trứng có 5 phần sau: phễu, phần lòng trắng, cổ, tử cung và âm đạo.
Phễu - phần mở rộng của phía đầu ống dẫn trứng, dài 4 - 7cm, đường kính 8 - 9cm, nằm dưới buồng trứng. Bề mặt niêm mạc phễu xếp nếp, không có tuyến.
Chuyển động nhu mô của phễu có khả năng bắt lấy tế bào trứng khi nó rụng xuống từ buồng trứng. Lòng đỏ nằm ở phễu khoảng 15-29 phút. Lớp lòng trắng đầu tiên được bao bọc xung quanh tế bào trứng tiết ra ở cổ phễu. Lòng trắng này đặc, quấn ngay lòng đỏ. Khi đi qua phần đầu của ống dẫn trứng, lòng đỏ lăn chậm trong lòng cổ phễu, làm cho lớp lòng trắng đặc xung quanh mình nó vặn xoắn lại, tạo ra 2 cuộn dây chằng ở 2 đầu lòng đỏ, có tác dụng giữ cho lòng đỏ luôn nằm ở tâm trứng. Trên các nếp nhăn của phễu thường có rất nhiều tinh trùng, chúng sống nhờ một phần dinh dưỡng trong dịch ở các nếp này và thụ tinh ngay khi gặp lòng đỏ vừa rụng xuống.
Phần tạo lòng trắng - là phần dài nhất của ống dẫn trứng, khi gà đẻ mạnh, phần này dài đến 30 - 50cm. Niêm mạc của ống có nhiều nếp xếp dọc. Trong đó có nhiều tuyến hình ống, cấu tạo giống như tuyến ở cổ phễu. Chất tiết của tuyến là lòng trắng, bao quanh lòng đỏ, chúng gồm nhiều lớp: phía trong đặc, phía ngoài loãng. Thời gian trứng ở trong phần tạo lòng trắng không quá 3 giờ.
Cổ (eo) là phần hẹp lại của ống dẫn trứng, dài 8cm. Niêm mạc có những nếp xếp nhỏ. Ở đó lòng trắng loãng được bổ sung thêm, đồng thời các tuyến ở eo tiết ra các sợi chắc, đan vào nhau để hình thành 2 lớp màng chắc dính sát vào nhau, chỉ tách nhau ở đầu lớn của trứng, đó là màng dưới vỏ cứng. Hình dạng của trứng được quyết định ở đây. Trứng nằm trong đoạn eo gần 1 giờ.
Dạ con là đoạn tiếp theo của eo, đó là phần mở rộng, thành dày, chiều dài 10 - 12cm. Các nếp nhăn của niêm mạc phát triển mạnh, và xếp theo hướng ngang và xiên. Tuyến của vách dạ con tiết ra chất dịch lỏng, bổ sung vào lòng trắng, chúng thấm qua các màng dưới vỏ trứng vào lòng trắng. Trong thời gian trứng ở dạ con, khối lượng trứng tăng gần gấp đôi. Vỏ trứng được hình thành do chất tiết của tuyến dạ con. Vỏ trứng được cấu tạo từ cốt hữu cơ và chất trung gian. Cốt được hình thành bằng những sợi protein dạng colagen nhỏ chồng chéo lên nhau. Chất trung gian cấu tạo từ những muối canxi ở dạng hợp nhất không tan - canxi cacbonat (99%) và canxi photphat (1%). Sự tổng hợp chất vôi được tiến hành trong suốt thời gian trứng nằm ở dạ con (18 - 20 giờ), lúc này bề mặt của các màng dưới vỏ dính chặt vào thành dạ con, do đó các màng này giãn ra. Tr ương lực của cơ dạ con tăng đồng thời, nó tiếp xúc chặt với trứng và tiết chất khoáng lên bề mặt màng vỏ trứng.
Đầu tiên lớp vỏ ngoài được tạo thành, được cấu tạo từ những nhú, đầu trên của nhú cắm sâu vào bề mặt ngoài của lớp dưới vỏ, còn phần chân rộng thì hướng vào vách dạ con. Nhú cấu tạo từ tinh thể canxi cacbonat (canxita). Lớp nhú chiếm 1/3 độ dày vỏ. Từ bên ngoài, lớp nhú được phủ một lớp màng bền chắc. Nền móng của lớp này là các sợi collagen được tạo bởi chất dịch của tuyến ở phần trước dạ con. Phần trung gian giữa các sợi chứa muối canxi, làm cho vỏ trứng được chắc.
Khoảng không gian của các nhú không chứa chất khoáng, ở đây có các lỗ khí, các lỗ này xuyên qua độ dày bền chắc và được mở ra trên bề mặt của vỏ trứng. Số lượng các lỗ phù hợp với số lượng lỗ ống của tuyến dạ con. Các lỗ phân bố trên bề mặt vỏ trứng không đều: phần nhiều là tập trung trên đầu tù của trứng, vùng buồng khí và ít hơn cả là ở đầu nhọn của trứng. Trong một vỏ trứng gà có tới 8 nghìn lỗ khí. Tuyến dạ con còn sản xuất ra các sắc tố làm cho vỏ trứng có màu khác nhau.
Men cacbonic anhydraza và photphataza kiềm tham gia tích cực vào trong quá trình hình thành vỏ trứng, Cacbonic anhydraza xúc tác vào sự hình thành anion cacbonat từ axit cacbonic và nước. Phophataza kiềm xúc tác quá trình chuyển ion canxi để tổng hợp các chất vô cơ của vỏ. Người ta đã luận rằng ở gà đẻ, trong biểu mô dạ con chứa một lượng cacbonnic anhydraze nhiều hơn hẳn ở gà không đẻ. Các chất ức chế cacbonnic anhydraze phá huỷ quá trình hình thành vỏ trứng... Nếu thừa chất đó thì trứng đẻ ra không có vỏ.
Âm đạo là đoạn cuối cùng của ống dẫn trứng. Từ dạ con, âm đạo được tách ra bằng phần thu hẹp cổ tử cung, nơi đó có van cơ. Phần cuối cùng của âm đạo được mở ra và đi vào đoạn giữa ổ nhớp, gần niệu quản trái. Âm đạo dài 7 - 12 cm. Niêm mạc nhăn, không có tuyến. Lớp biểu mô của âm đạo sản xuất ra dịch tiết, tham gia vào sự hình thành lớp màng trên vỏ, lớp cơ phát triển tốt, nhất là lớp cơ vòng, nhờ sự co bóp của lớp cơ này mà quả trứng được đẩy ra ngoài qua lỗ huyệt.
Động tác đẻ trứng là quá trình phản xạ phức tạp. Những thụ cảm niêm mạc âm đạo được kích thích bằng quả trứng nằm trong nó. Những xung động từ cơ quan thụ cảm làm cho cơ âm đạo và dạ con co bóp mạnh. Nhờ có co bóp đồng thời của cơ dạ con và cơ âm đạo nên trứng được đẩy qua ổ nhớp mà không chạm vào vách, nên bề mặt vỏ trứng mới không bẩn. Thường gà đẻ trứng ở tư thế đứng.
Trong sự điều chỉnh đẻ trứng có sự tham gia của hocmon được hình thành trong nang trứng. Sau khi cắt bỏ nang trứng, gà ngừng đẻ 9 - 36 giờ. Động tác đẻ trứng nằm dưới sự điều khiển của các vùng cao cấp của hệ thần kinh trung ương.
Thay đổi liên tục điều kiện nuôi dưỡng (thay đổi chuồng, chuyển gà từ nhà này sang nhà khác, thay đổi ché độ nuôi dưỡng...) có thể làm cho gà ngừng đẻ một thời gian dài.
Chu kỳ đẻ trứng. Đẻ trứng là bản năng của quá trình sinh sản. Chim rừng thể hiện rõ hoạt tính sinh dục có chu kỳ theo mùa và do đó chu kỳ đẻ trứng phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh. Ở một số giống gà công nghiệp cao sản, tính đẻ trứng theo mùa không còn nữa. Điều chỉnh chế độ nuôi dưỡng tốt thì duy trì được sản lượng trứng cao trong thời gian dài. Gà cao sản có thể đẻ trên 300 trứng trong một năm.
Phần lớn gà đẻ mỗi ngày 1 quả, không nghỉ trong một thời gian có thể dài hoặc thời gian ngắn. Thời gian gà đẻ trứng liên tục, không nghỉ gọi là chu kỳ đẻ trứng. Các chu kỳ có thể dài hoặc ngắn. Thời gian kéo dài của chu kỳ phụ thuộc vào thời gian hình thành 1 quả trứng. Ở gà đẻ, thời gian cần thiết để hình thành 1 quả trứng là 24 đến 28 giờ (trung bình là 25 giờ). Nếu trứng được hình thành dưới 24 giờ thì gà đẻ liên tục (ngày một) và chu kỳ đẻ trứng có thể kéo dài (4 - 6 trứng và hơn). Gà đẻ kỷ lục có thể đẻ tới trên 200 trứng trong một chu kỳ. Nếu như trứng được hình thành trên 24 giờ thì gà sẽ đẻ cách nhật. Sự kéo dài quá trình hình thành trứng ở gà đẻ sẽ làm cho trứng nằm trong dạ con lâu. Nếu như vào nửa ngày thứ hai mà không có hiện tượng rụng trứng, thì gà sẽ đẻ trứng cách nhật. Ví dụ, quả trứng hình thành trong 26 giờ thì trứng đẻ vào những ngày sau sẽ lệch sang 8, 10, 12, 14 giờ của ngày, và sau đó là cách nhật. Như vậy, thời gian cần thiết để hình thành quả trứng càng nhiều thì chu kỳ đẻ trứng càng ngắn và càng kéo dài thời gian cách nhật. Ng ược lại, chu kỳ càng dài thì thời gian nghỉ càng ngắn.
Bảng 1.4. Mối liên hệ giữa thời gian tạo trứng (giờ) và chu kỳ đẻ trứng của gà mái
Ngày |
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
Mái I 27g/ trứng |
+
|
+
|
+
|
-
|
+
|
+
|
+
|
-
|
+
|
+
|
+
|
-
|
Mái II 26g/ trứng |
+
|
+
|
+
|
+
|
+
|
-
|
+
|
+
|
+
|
+
|
+
|
-
|
Mái III 25g/ trứng |
+
|
+
|
+
|
+
|
+
|
+
|
+
|
+
|
+
|
-
|
+
|
+
|
Chú thích: (+) ngày đẻ trứng (-) ngày không đẻ
Chu kỳ đẻ trứng của gà đẻ gồm chu kỳ ổn định và không ổn định. Gà đẻ trứng tốt có chu kỳ ổn định và kéo dài. Những gà đẻ kém chu kỳ thường ngắn, còn thời gian giữa các chu kỳ thì dài, cho nên sản lượng trứng thấp. Gà tây, vịt và ngỗng chu kỳ đẻ trứng khác hơn ở chỗ kéo dài hơn và theo mùa. Gà đẻ tốt trong một năm cho tới trên300 quả, vịt 120 - 180 quả, gà tây 100 - 150, ngỗng 50 - 80 quả. Yếu tố mùa đẻ trứng của vịt và ngỗng liên quan đến hoạt động của hocmon FSH và LH và hoạt động của vùng dưới đồi thị.
Vịt bắt đầu đẻ khi 7 - 8 tháng tuổi và đẻ trong 6 tháng cho đến thời kỳ thay lông. Trong thời gian đó vịt đẻ bình quân 120 - 130 quả trứng. Sau đợt thay lông, khả năng đẻ trứng được khôi phục (chu kỳ thứ II) và kéo dài 5 tháng, trong thời gian này vịt đẻ 80 - 90 quả trứng.
Hàng ngày vịt đẻ rất sớm, thường vào 3 - 4 giờ sáng. Đến 5 giờ sáng có tới 70% vịt đẻ, còn đến 6 giờ vịt đã đẻ xong.
Bản năng ấp trứng liên quan đến khả năng đẻ trứng và phản xạ không điều kiện. Gà tây thể hiện rõ bản năng ấp trứng hơn, thường là sau khi đẻ được 15 - 17 trứng. Ở vịt, bản năng này xuất hiện nếu những trứng đẻ ra vẫn ở trong ổ. Ở gà chuyên trứng đã mất bản năng ấp trứng nên có năng suất trứng cao. Ở gà giống thịt, sự ấp trứng thể hiện mạnh hơn, làm giảm sản lượng trứng.
Vào thời điểm đẻ trứng, tuyến yên tiếToxitoxin tăng lên, này kích thích co bóp các cơ trơn của thành ống dẫn trứng.
Toàn bộ các quá trình sinh sản được điều khiển bởi hoạt động của tuyến yên và vùng dưới đồi thị. Tỷ lệ đẻ của gà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: loài, giống, lứa tuổi, trạng thái sinh lý, đặc điểm cá thể, điều kiện ngoại cảnh, điều kiện nuôi dưỡng…
Trong các yếu tố môi trường thì ánh sáng có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển và chức năng của cơ quan sinh dục con mái. Kéo dài sự chiếu sáng khác nhau thì kích thích hoặc ức chế hoạt tính sinh dục của gà. Nuôi gà con trong điều kiện ngày chiếu sáng dài hơn thì thời gian thành thục sinh dục rút ngắn đi. Vịt Bắc Kinh nuôi dưỡng từ bé ở điều kiện ngày chiếu sáng 16 giờ thì sự thành thục sinh dục bắt đầu khi 135 ngày tuổi, còn trong điều kiện chiếu sáng tự nhiên thì phải đến 240 ngày tuổi. Ngỗng rút ngắn thời gian thành thục sinh dục, khi chiếu sáng 13 giờ. Dùng thêm ánh sáng nhân tạo, sự thành thục sinh dục ở gà và gà tây sẽ sớm hơn. Nhưng nếu sự thành thục sinh dục quá sớm thì gà có khối lượng bé và sẽ đẻ trứng bé. Khi sự thành thục sinh dục muộn thì gà đẻ trứng to hơn. Trong điều kiện chăn nuôi gà công nghiệp, sự điều chỉnh chế độ ánh sáng và dinh dưỡng cần được hết sức chú ý sao cho gia cầm đẻ đúng tuổi, khi cơ thể đã tương đối hoàn chỉnh và có khối lượng chuẩn, nhằm tăng năng suất sinh sản.
2. Sinh lý sinh dục con trống
Cơ quan sinh dục của gà trống gồm tinh hoàn, mào tinh hoàn, ống dẫn tinh và cơ quan giao cấu (bộ phận này khá phát triển ở thuỷ cầm, đà điểu).
Tinh hoàn là cơ quan đôi, hình ôvan hoặc hình hạt đậu, màu trắng ngà, nằm trong khoang bụng, ở vị trí trước thận. Ở gà trống trưởng thành, trong thời kỳ hoạt động sinh dục, tinh hoàn dài tới 4,7, đường kính 2,5 - 2,7 cm, khối lượng 17 - 19g. Thời kỳ thay lông, khối lượng giảm tới 3 - 5g. Ở ngỗng và vịt trống có sự thay đổi theo mùa của khối lượng tinh hoàn. Vào khoảng tháng 12, tinh hoàn của vịt trống có khối lượng 2,6g, còn trong tháng 6: 3,9g.
Tinh hoàn được bọc một lớp màng trắng, từ lớp màng này ăn sâu vào là những sợi liên kết yếu. Những ống sinh tinh gấp khúc nối với nhau, tạo thành mạng lưới dày. Những phần riêng biệt của ống sinh tinh hơi phình to. Ở đây diễn ra sự hình thành tế bào sinh dục. Trên bề mặt cắt ngang của ống gấp khúc, ta thấy lớp ngoài cùng là mô liên kết hình sợi, mô này tạo ra màng đáy. Bên trong nó có 5 - 6 lớp tế bào tạo thành độ dày thành ống. Giữa các lớp đó có những tế bào hình chóp - tế bào sertoly, chân những tế bào này nằm ở màng đáy, còn đỉnh của chúng hướng vào giữa ống. Những tế bào này đảm nhiệm chức năng dinh dưỡng, giữa chúng có tế bào tinh trùng ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Gần màng đáy, ống sinh tinh là nguyên bào tinh (spermatogonium), trên nó là tinh bào sơ cấp (cấp I) và tinh bào thứ cấp (cấp II), sau đó là tiền tinh trùng và tinh trùng. Tinh trùng trưởng thành xâm nhập vào ống dẫn tinh, từ đó vào mào tinh hoàn và vào ống dẫn tinh.
Mào tinh hoàn của gia cầm phát triển yếu, một số lượng lớn ống dẫn từ mạng lưới tinh hoàn ăn sâu vào đó. Những ống dẫn nhỏ này tạo thành ống dẫn, là nơi bắt đầu của ống dẫn tinh. Trong mào tinh hoàn, tinh trùng tiếp tục hoàn thiện và tăng thêm khả năng thụ tinh của chúng. T inh dịch được hình thành ở những ống gấp khúc trong tinh hoàn. Nó tạo ra môi trường cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của tế bào sinh dục.
Ống dẫn tinh có dạng hình ống, nhỏ, gấp khúc, thành ống cấu tạo bởi lớp niêm mạc, cơ và thanh mạc. Ống dẫn tinh nối với ống dẫn của mào tinh hoàn và vào tận phần giữa của ổ nhớp. Phần cuối cùng ống dẫn tinh là chỗ phình to hình bong bóng. Đây là nơi tích tụ tinh dịch. Trong huyệt, ống dẫn tinh được kết thúc bằng những gờ nhỏ nằm ở phía ngoài ống dẫn nước tiểu. Cấu tạo của ống dẫn tinh thay đổi phụ thuộc vào trạng thái chức năng của bộ máy sinh dục. Trong thời gian hoạt động sinh dục, ống dẫn tinh to ra, thành ống dày lên, tăng số lượng gấp khúc.
Sơ đồ cấu tạo cơ quan sinh dục của con trống |
Cơ quan giao cấu của gà trống và gà tây không phát triển. Nó chỉ là chỗ phình hình bong bóng của ống dẫn tinh, nó nở to khi có kích thích sinh dục. Ngoài ra, khi tinh hoàn hoạt động còn có sự tham gia của những nếp nhăn limpho và những thể ống, nằm ở tận cùng của ống dẫn tinh. Khi giao cấu, ổ nhớp con trống áp sát với lỗ huyệt con mái. Lúc này âm đạo được bộc lộ ra và tinh trùng được phóng vào lỗ huyệt của con mái.
Ở ngỗng đực, cơ quan sinh dục ngoài cấu tạo từ hai thể xơ, nó phồng lên khi bị c ương cứng bởi dòng limpho. Giữa các thể này có các lớp niêm mạc tạo thành rãnh dọc, tinh dịch được dẫn theo rãnh này. Lúc bình thường, bộ phận sinh dục nằm trong ổ nhớp trên ruột già, khi giao cấu, nó lồi ra từ ổ nhớp do sự co bóp của cả 2 cơ đặc biệt.
a. Sự tạo tinh trùng
Quá trình phát triển tế bào sinh dục đực được chia làm 4 giai đoạn: sinh sản, sinh trưởng, trưởng thành và chín. Cũng như quá trình hình thành trứng, trong tất cả các giai đoạn này có sự cấu trúc lại thể nhiễm sắc của nhân tế bào sinh dục và giảm số lượng nhiễm sắc thể. Do đó trong tinh trùng cũng như trong tế bào trứng đều có bộ nhiễm sắc thể đơn bội.
Các giai đoạn tạo tinh trùng của gà phát triển đồng thời với sự trưởng thành và biệt hoá bộ máy sinh dục, dưới tác động của hệ thống thần kinh và hocmon. Ở gà trưởng thành, tính chất chu kỳ của sự tạo tinh trùng có thay đổi theo mùa của hoạt động sinh dục.
Trong giai đoạn sinh sản, nguyên bào ở màng đáy thành ống, được phân chia nhiều lần bằng cách gián phân nhằm làm tăng số lượng. Sau đó, chúng ngừng sinh sản và bắt đầu vào giai đoạn thứ hai - giai đoạn sinh trưởng. Những tế bào này nằm trong vùng sinh trưởng, ống dẫn chất dinh dưỡng to ra, và tế bào tăng về kích thước. Những tế bào như vậy gọi là tinh bào thứ nhất. Trong nhân những nhân tế bào này, thể nhiễm sắc của nhân hình thành từng cặp, sau đó xảy ra quá trình tiếp hợp nhiễm sắc. Trong thời điểm này, chất dinh dưỡng vào nguyên bào chậm dần và giai đoạn sinh trưởng cũng không được tiến hành nữa.
Tinh trùng của các loài gia cầm trống |
A - Gà trống, B - Vịt đực, C - Đầu tinh trùng ngỗng đực
1. Đầu, 2. Cổ, 3. Phần liên kết, 4 -Phần giữa, 5- Đuôi
Trong nhân tế bào xuất hiện những nhiễm sắc tứ liên, trong lúc đó số lượng nhiễm sắc tứ liên trùng với số đôi nhiễm sắc trong nguyên bào tinh. Tiếp theo là giai đoạn trưởng thành. Giai đoạn này gồm hai lần phân chia liên tiếp. Sau lần chia thứ nhất, mỗi tinh bào thứ nhất tạo thành 2 tinh bào thứ hai. Sau đó bắt đầu phân chia lần thứ hai và mỗi tinh bào thứ hai tạo thành hai tế bào mới - tiền tinh trùng, trong nhân của nó có bộ nhiễm sắc thể đơn bội (1n). Tiền tinh trùng có hình cầu và nhân tròn. Trong giai đoạn thứ 4 - tiền tinh trùng dần dần biến thành tinh trùng. Nhân lệch về một phía. Tương bào dài ra. Tâm tế bào nằm vuông góc với bề mặt của nhân. Nhân được bao phủ chỉ bởi một lớp mỏng tương bào. Phần này của tế bào tạo thành phần đầu tinh trùng. Trong phần kéo dài của tế bào hình thành đuôi, quanh nó có tương bào co bóp được. Tinh trùng hình thành hoàn chỉnh được bao bọc đầu (chỏm) trong tương bào tế bào Sertoli, nơi mà sau một thời gian ngắn, tinh trùng hoàn thiện, sau đó từ ống sinh tinh gấp khúc, tinh trùng đi vào mào tinh hoàn và vào ống dẫn tinh.
Khả năng chuyển động và thụ tinh của tinh trùng ở các phần khác nhau của bộ máy sinh dục con trống không giống nhau. Tinh trùng từ ống sinh tinh của tinh hoàn, không chuyển động và không có khả năng thụ tinh. Tinh trùng từ ống của mào thụ tinh được 13%, còn từ ống dẫn tinh - 74%. Tinh trùng từ mào của tinh hoàn ít chuyển động. Tinh trùng ở ống dẫn tinh có khả năng chuyển động mạnh nhất. Thời gian tạo tinh trùng ở gà trống là 14 - 15 ngày, tức là bằng một nửa thời gian tạo tinh trùng của gia súc khác.
Ở con trống đang phát triển, hocmon tuyến yên kích thích sự phát triển tế bào sinh dục, sự phát triển ống sinh tinh và sự tạo thành tế bào sinh dục tăng lên. Thời gian sinh trưởng sinh dục của con trống phụ thuộc vào giống, điều kiện thức ăn, chăn nuôi và nhiều nhân tố khác. Yếu tố tác động mạnh nhất là ánh sáng, nó tác dụng tới tuyến yên, và thông qua nó, tác dụng tới tuyến sinh dục. Thời gian kéo dài và mức độ chiếu sáng có ảnh hưởng lớn tới sinh trưởng và phát triển của tinh hoàn ở động vật non và quá trình hình thành tinh trùng của con trống trưởng thành. Thành phần quang phổ của ánh sáng cũng có ý nghĩa. Mức độ tác động lên tuyến yên và tuyến sinh dục được sắp xếp theo thứ tự sau: đỏ, da cam, vàng, xanh và xanh da trời.
Thời gian trải qua các giai đoạn khác nhau của sự tạo tinh tinh trùng ở gà con, gà dò phụ thuộc vào khả năng phát dục của giống. Như là trống Plymouth rock, nguyên bào thứ nhất xuất hiện vào tuần thứ 6, nguyên bào thứ 2 vào tuần tuổi thứ 10, tiền tinh trùng vào tuần tuổi thứ 12, còn tinh trùng vào tuần tuổi thứ 16 - 20. Trống Leghorn, tinh trùng xuất hiện vào tuần tuổi thứ 12, còn vào tuần tuổi 24 - 26, tinh trùng hoàn toàn có khả năng thụ tinh được.
b. Đặc điểm hình thái và sinh lý của tinh trùng gia cầm
Tinh trùng gia cầm, cũng như của động vật có vú đều có ngoại hình như nhau: đầu, cổ, thân và đuôi. Các loại gia cầm khác nhau thì tinh trùng của chúng khác nhau về chiều dài và hình dạng của đầu
Độ dài của tinh trùng trung bình là 40 - 60 micron. Đầu tinh trùng của ngỗng dài, trên phần chỏm thì nhọn hoặc có hình xoắn. Đầu tất cả các loại tinh trùng, trừ phần trước của nó - hình mũ chụp và chứa nhân đồng nhất. Phía trước nhân có tiểu thể nhỏ, tiểu thể này là sản phẩm của bộ Golgi. Cổ - phần không lớn lắm, hơi bị thắt lại, nối với đầu và thân. Phía trên cổ, ở dưới nhân có trung thể. Gần nó là nơi bắt đầu sợi trục, sợi này cấu tạo bởi những sợi fibrin nhỏ kéo dài xuống tới đuôi. Quanh trục này có 2 sợi fibrin quấn quanh như hình lò xo. Hai sợi này dễ tách ra ở thân và đuôi. Phần tròn của đuôi chỉ có sợi trục, bao quanh nó là một lớp mỏng bào tương. Phần tạo ra cử động chính của tinh trùng là sợi trục. Càng gần tới phần cuối của đuôi, độ cong và tốc độ chuyển động sóng của sợi trục càng ít. T inh trùng gia cầm cũng như của những động vật thụ tinh trong, đều chuyển động thẳng do những chuyển động quay quanh trục dọc của đuôi.
Tốc độ chuyển động của tinh trùng gia cầm trung bình là 1 - 1,5 mm/phút. Để chuyển động được, tinh trùng cần phải có lượng năng lượng lớn, được tạo ra ở phần giữa của đuôi khi xảy ra quá trình oxi hoá photpholipit và hidrat cacbon. Tính chuyển động của tinh trùng chỉ tồn tại trong những điều kiện thích hợp, quan trọng nhất là nhiệt độ và pH môi trường. Ở nhiệt độ trên 48 o C và 0°C gây ảnh hưởng không tốt. Môi trường thích hợp nhất là trung tính, kiềm yếu hoặc axit yếu.
Khối lượng tinh phóng ra của con trống khi giao cấu không giống nhau ở các loại gia cầm khác nhau. Gà trống trong 1 lần giao cấu phóng ra 0,6 - 2ml tinh dịch, trong 1 ml tinh có 3,2 tỷ tinh trùng; ngỗng trống khối lượng tinh phóng ra là 0,1 - 2ml với nồng độ 340 - 350 triệu tinh trùng/ml; vịt đực 0,1 - 1ml và 0,7 - 3,5 triệu/ml. Tinh trùng gà trống màu trắng, pH = 7,04 - 7,27; của vịt đực pH = 6,6 - 7,8.
Khối lượng tinh phóng ra và nồng độ tinh trùng là những chỉ số đánh giá chức năng của dịch hoàn, phụ thuộc vào đặc điểm cá thể của con trống, số lần giao cấu, mùa trong năm và những yếu tố khác. Kết quả cho thấy rằng trong suốt một ngày đêm, lượng tinh trùng sản xuất ra không bằng nhau, tăng lên vào ban đêm và sáng sớm, ban ngày sự tạo tinh trùng giảm. Số lượng và chất lượng tinh trùng trong tinh dịch phóng ra của con trống phụ thuộc vào tỷ lệ trống mái trong đàn.
c. Phản xạ sinh dục và động tác giao cấu
Gà trưởng thành sinh dục khi cơ quan sinh sản phát triển, đã hoàn chỉnh và bắt đầu có phản xạ sinh dục. Phản xạ sinh dục không điều kiện phức tạp của gia cầm cũng như của động vật có vú bao gồm: a) Phản xạ lại gần; b) Chuẩn bị cơ quan giao hợp; c) Phản xạ giao hợp; d) Phóng tinh.
Những phản xạ sinh dục có liên quan với nhau, phản xạ giao hợp không xuất hiện khi không có phản xạ lại gần. Để có được hiện tượng phóng tinh, cần có sự chuẩn bị của cơ quan giao hợp. Nếu như một phản xạ nào đó mất đi thì các tổng hợp phản xạ không thể có được.
Phản xạ tiến lại gần của con trống ở dạng săn sóc sinh dục. Gà trống có điệu nhảy sinh dục rất điệu nghệ, khi nó xoè một cánh xuống và vỗ vỗ, đi những b ước rất ngắn và uyển chuyển quanh gà mái, đồng thời cất tiếng kêu đặc biệt nhằm mê hoặc con mái. Dạng khác của phản xạ lại gần là săn sóc ăn uống. Gà trống kiếm hạt thức ăn hoặc một vật gì đó, cũng nâng lên hạ xuống liên hồi và kêu những tiếng đặc trưng nhằm quyến rũ gà mái. Những dạng khác của phản xạ tiến lại gần cũng có thể có. Gà trống có thể giao cấu 25 - 41 lần/ngày. Nếu gà trống bị nhốt riêng, khi gặp gà mái, có thể giao phối tới 13 -29 lần/giờ.
Nếu hiện tượng giao cấu sảy ra nhiều thì sẽ giảm lượng tinh phóng ra và nồng độ tinh trùng, nghĩa là giảm tỷ lệ thụ tinh. Trong một đàn nhiều trống mái, thường có hiện tượng chọn lọc trong giao phối giữa một số cá thể với nhau. Hiện tượng này phổ biến ở đàn ngỗng vì tỷ lệ thụ tinh của ngỗng thấp.
Phản xạ giao hợp ở gà là sự dính sát vào nhau của 2 ổ nhớp. Của thuỷ cầm, đà điểu là sự xâm nhập cơ quan giao cấu của con trống vào ổ nhớp của con mái. Độ sạch của ổ nhớp có ý nghĩa rất quan trọng trong phản xạ giao cấu và ảnh hưởng rất rõ đến tỷ lệ thụ tinh. Trong chăn nuôi, cần hết sức chú ý đến vấn đề này. Theo kinh nghiệm của nông dân, để trứng có tỷ lệ thụ tinh cao, mỗi tuần cần rửa sạch phân ở khu vực xung quanh lỗ huyệt của cả gà trống và mái, thậm chí, nhổ bớt lông xung quanh lỗ huyệt của gà trống nhằm làm cho lỗ huyệt của cả hai áp sát vào nhau khi đạp mái. Gà trống sẽ phóng hết tinh vào lỗ huyệt gà mái dễ dàng và trọn vẹn.
Khi phóng tinh, con trống thường phóng ít một nhờ cơ của cơ quan sinh dục co bóp.
Trung tâm thần kinh của sự phóng tinh nằm ở phần hông tuỷ sống. Thần kinh phó giao cảm đi tới tận cơ quan sinh dục, kích thích những thần kinh này làm giảm sự phóng tinh, còn kích thích thần kinh giao cảm làm tăng sự phóng tinh.
Ở gia cầm, ngoài phản xạ không điều kiện, có thể tạo phản xạ có điều kiện trong trường hợp, nếu một vật kích thích nào đó từ môi trường xung quanh trùng với phản xạ không điều kiện trong cùng một thời gian. Người ta thường tạo ra các phản xạ có điều kiện để khai thác tinh dịch của gia cầm trống để thụ tinh nhân tạo.
Receive articles via Email!