Chỉ Số Nhiệt Độ - Độ Ẩm Trong Chăn Nuôi Bò Sữa
Chỉ số THI (Temperature Humidity Index) đã được sử dụng từ đầu những năm 1990. Nó phản ánh tác động kết hợp của nhiệt độ môi trường và độ ẩm tương đối, và là một chỉ số hữu ích, dễ dàng dùng để đánh giá nguy cơ sốc (stress) nhiệt.
- Khi chỉ số THI vượt quá 72, bò đã có thể đã bị sốc nhiệt và tình trạng mang thai sẽ bị ảnh hưởng.
- Khi THI vượt quá 78, sản xuất sữa bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
- Khi THI tăng lên trên 82, thiệt hại rất đáng kể trong sản xuất sữa, bò bị sốc nặng và cuối cùng có thể chết.
Nhiều điểm quan trọng cần nói đến về chỉ số THI.
Giá trị THI là 72 có thể mức cao hơn mức chịu nhiệt của bò giống Holstein Friesian vốn có năng suất cao – tăng sản xuất sữa thì cũng tăng độ nhạy với sốc nhiệt.
Nghiên cứu mới đây cho thấy sản lượng sữa 35-45 lít / ngày làm giảm ngưỡng sốc nhiệt mức 5°C.
Chỉ số THI không tính đến bức xạ mặt trời hoặc chuyển động của không khí - hai yếu tố này, cùng với nhiệt độ không khí và độ ẩm tương đối, xác định nhiệt thu và mất giữa bò với môi trường.
Chỉ số THI không cho phép ta đo lường sự tích tụ của tải nhiệt theo thời gian, ví dụ: sau vài ngày.
Mặc dù có những hạn chế, chỉ số THỊ vẫn là một cách hữu ích và dễ dàng để đánh giá và dự đoán nguy cơ sốc nhiệt; tuy nhiên không nên cứng nhắc trong việc sử dụng nó. Nếu ta có đàn bò Holstein Friesian cao sản, cần đánh giá cao hơn rủi ro của sốc nhiệt khi sử dụng một chỉ số THI thấp hơn.
Chỉ số THI được tính từ nhiệt độ không khí và độ ẩm tương đối bằng phương trình sau:
THI = (nhiệt độ bầu khô oC) + (0,36 x nhiệt độ điểm sương oC) + 41,2
(Xem giải thích cuối bài)
Ghi chú đồ thị: Trục đứng: Nhiệt độ không khí ºC, Trục nằm: ấm độ tương đối (%)
Ta có thể thấy trong biểu đồ này ,chỉ số THI 78 xảy ra tại:
31ºC và độ ẩm tương đối 40%; hoặc độ ẩm tương đối 80%, 27ºC
Hơn nữa, sốc nhiệt nhẹ gây ra những thay đổi sinh lý cho các con bò mà có thể khi chỉ số THI ở mức thấp.
|
Nhiệt độ có thể thấp nhưng nếu độ ẩm cao, bò bắt đầu cảm thấy nóng.
|
Ta hãy quan sát biểu đồ này, nó cho thấy chỉ số THI trung bình và và phạm vi dự kiến hàng ngày đối với một địa điểm cụ thể, tương phản với nền tảng của các băng chỉ số THI tương đối được dựa trên dữ liệu thời tiết trong lịch sử.
Ta có thể thấy rằng đối với địa điểm này, điều kiện có thể dẫn đến thời kỳ sốc nhiệt vừa phải thường xảy ra từ tháng Mười một đến tháng Ba. Tuy nhiên, thời kỳ nhiệt cao cũng xảy ra, thường xuyên nhất vào tháng Giêng / đầu tháng Hai. Ngay từ giữa tháng Mười và muộn nhất là tháng ba-tháng tư, sản xuất sữa và tỉ lệ chửa vẫn có thể bị ảnh hưởng nếu nhiệt không được quản lý năng động.
Tại vị trí này, thời gian thích hợp để đi vào cảnh báo là giữa tháng Mười. Một ví dụ về một đồ thị sác xuất chỉ số THI hàng năm, như sau:
Cần xem điều kiện khí hậu dự đoán ở nơi quý vị nuôi bò trong nhưng tuần tới và dự đoán ảnh hưởng của chúng đến khả năng chống nhiệt của bò, hãy sử dụng “dự đoán thời tiết của Australia qua mạng Weather Forecaster. Quý vị cũng có thể xem qua mạng Ngành Sữa Australia Dairy Australia
Dịch: Võ Văn Sự
Giải thích:
1. Nhiệt độ bầu khô (The dry-bulb temperature (DBT) là nhiệt độ của không khí được đo bằng nhiệt kế tự do tiếp xúc với không khí nhưng được bảo vệ khỏi bức xạ và độ ẩm.)
2. Nhiệt độ điểm sương ( dew point the temperature) là nhiệt độ mà tại đó hơi nước trong mẫu không khí ở áp suất khí quyển liên tục ngưng tụ thành nước lỏng ở cùng một tỷ lệ mà tại đó nó bốc hơi. [1] Ở nhiệt độ dưới điểm sương, nước sẽ để lại không khí. Các nước ngưng tụ được gọi là sương khi nó hình thành trên bề mặt rắn. Các nước ngưng tụ được gọi là một trong hai sương mù hoặc một đám mây, tùy thuộc vào độ cao của nó, khi nó hình thành trong không khí.
Receive articles via Email!