Bệnh Glasser Trên Heo Do Haemophilus parasuis | Vetshop.VN


Bệnh Glasser Trên Heo Do Haemophilus parasuis

Đăng bởi: | ngày: 3.3.15 Bình luận cho bài viết! | In bài này

1.  Khái niệm

Bệnh do Haemophilus parasuis trên heo.
Bệnh do Haemophilus parasuis trên heo.
Bệnh do Haemophilus parasuis là bệnh truyền nhiễm trên đường hô hấp, bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi với biểu hiện ho, khó thở, thở ngồi kiểu chó ngồi với đặc điểm gây viêm đa khớp, viêm phổi dính sườn, viêm tràn dịch, viêm màng não và có thể dẫn đến chết. Do đó, H. parasuis cũng là nguyên nhân gây nhiều thiệt hại kinh tế cho nhà chăn nuôi Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Mặc dù chỉ một vài đàn heo tỷ lệ tử vong chỉ vì H. parasuis, bệnh gây ra bởi tác nhân này có thể xảy ra cùng một lúc là nhiễm trùng do vi khuẩn và virus khác như Streptococcus suis và Hội chứng rối loạn hô hấp sinh sản ở lợn do virus (PRRSV).

2. Lịch sử nghiên cứu

Bệnh do Haemophilus parasuis đã được Glasser quan sát và đề cập bệnh do vi khuẩn này gây ra vào năm 1910, trên heo bệnh có biểu hiện viêm đa khớp – viêm thanh dịch. Đến năm 1943, bệnh đã được Hiarre và Wramby nghiên cứu kỹ về căn bệnh và đã đặt tên tên là Haemohphilus suis. Ngoài ra theo Tô Minh Châu và Trần Bích Liên (1999) trước đó căn bệnh do vi khuẩn Haemophilus đã được Pleiffer phân lập lần đầu tiên trong những bệnh phẩm từ bệnh nhân bị cúm. Bệnh xảy ra hầu hết các đàn heo trên thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh có thể lên đến 100% nhưng tỷ lệ chết dao động từ 5-10%. Heamophilus parasuis là nguyên nhân gây viêm màng phổi nhiều sợi huyết, viêm phế quản phổi trên heo.

3. Căn bệnh học

Haemophilus parasuis là cầu trực khuẩn, gram âm, có tiêm mao và giáp mô. Cần yếu tố V (Nicotiamide Adenine Dinucleotide) nhưng không cần yếu tố X (hemin), hiếu khí hay yếm khí tùy nghi, không gây dung huyết. Nhiệt độ thích hợp là 37 độ C và pH=7,4-7,8. Vi khuẩn H. parasuis có thể mọc trên thạch máu với sự hiện diện của Staphylococcus. Khuẩn lạc đục 1 mm xuất hiện sau 48 giờ nuôi cấy.

Vi khuẩn này hiện diện ở đường hô hấp trên và có thể phân lập từ khoang mũi, amidan, và khí quản của heo khỏe mạnh. Mặc dù chủng không gây bệnh chiếm ưu thế ở đường hô hấp trên, một số heo có thể có các chủng độc lực có thể gây ra bệnh hệ thống đặc trưng bởi viêm tràn dịch, viêm khớp, và viêm màng não. Đến năm 1995, người ta phân lập ra 15 serovar nhau, trong đó serovars 4, 5 phổ biến nhất:
  • Serovars 1,5,10,12,13,14: có độc lực mạnh
  • Serovars 15,4: có độc lực trung bình
  • Serovars 3,6,7,8,9,11: không độc lực
Tính sinh bệnh của của H. parasuis liên quan đến protein 39Kda của màng ngoài. Độc tố dung giải tế bào (Cytotoxin) đã được đề cập nhưng chưa được xác định.

Sức đề kháng: Dễ bị tiêu diệt bởi các chất sát trùng thông thường, nhảy cảm với sự khô hạn và ánh sáng mặt trời. Nhạy cảm với Tetracycline, Sulfonamide, Chloramphenicol, Neomycin, Erythromycin.

4.  Dịch tễ học

Vi khuẩn có thể xâm nhập vào heo con một vài ngày sau khi sinh thông qua mũi do tiếp xúc. Và căn bệnh lây lan khá mạnh, việc lây truyền có thể qua tiếp xúc trực tiếp hay qua giọt khí dung, chỉ cần một lượng nhỏ H. parasuis khoảng 102-104 tế bào cũng đủ sức gây bệnh. Bệnh có thể lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với thú bệnh hoặc thú cùng sống trong một không gian chật hẹp. Ngoài ra bệnh có thể lây truyền gián tiếp qua công nhân trong trại. Sự lây truyền mầm bệnh có thể do tiếp xúc giữa đàn thú khỏe với thú bệnh. Bệnh cấp tính có thể xảy ra ở nhiều ô chuồng, do khí dung và không khí chuyển động làm lan truyền mầm bệnh. Người ta chưa xác định được vai trò của chim, loài gậm nhấm nhỏ trong việc lây lan của bệnh. Con người không phải là ký chủ của H. parasuis.

Qua nghiên cứu dịch tễ học của H. parasuis giữa các đàn gia súc thì thực tế mặc dù nhiều đàn vị ảnh hưởng bởi cùng một nhóm serovar nhưng mỗi đàn có một chủng phổ biến khác nhau.

Miễn dịch thụ động từ heo mẹ truyền sang heo con sẽ giảm dần sau 2 – 4 tuần tuổi đầu tiên, vì vậy bệnh có thể xảy ra trên heo con từ 2-15 tuần tuổi, những thời kỳ cai sữa 5-8 tuần tuổi thường là thời điểm lý tường để H. parasuis gây bệnh và tử số thường là 5-10% nhưng cũng có thể lên đến 50%. Vi khuẩn này có nhiều serovar nên có thể có nhiều hơn một serovar gây bệnh trên cùng một đàn heo và có nhiều serovar không độc lực hiện diện ở mũi heo. Sự miễn dịch chỉ chống được với mỗi một serovar nhiễm còn đối với các serovar khác thì không có, hoặc nếu có thì cũng rất kém.

Một trong những vấn đề phải đối mặt khi cố gắng kiểm soát nhiễm trùng H. parasuis (bệnh Glasser) là khoảng cách “'miễn dịch” là khoảng thời gian mà miễn dịch mẹ truyền giảm thấp và miễn dịch do chích vaccine không đủ sức bảo vệ heo con chống lại việc mắc bệnh. Khoảng cách miễn dịch này kéo dài khoảng 4 tuần, đây là giai đoạn heo có nguy cơ mắc bệnh cao nhất, do dó cần chú y chăm sóc và có biện pháp phòng ngừa hợp lý ví dụ như đưa kháng sinh vào thức ăn nước uống.

Hình 4.1 Đồ thị biểu hiện khoảng cách “miễn dịch” – 4 tuần nguy cơ cao
Hình 4.1 Đồ thị biểu hiện khoảng cách “miễn dịch” – 4 tuần nguy cơ cao

5. Sinh bệnh học

Mầm bệnh thường ký sinh sẵn trên đường hô hấp heo, khi có nguyên nhân làm giảm sức đề kháng như: thời tiết thay đổi hay các yếu tố gây stress vi khuẩn sẽ tăng độc lực gây bệnh. Các yếu gây stress như thay đổi thời tiết đột ngột, ẩm độ cao kết hợp với độ thông thoáng kém, vận chuyển, thức ăn, cai sữa chính là nhưng yếu tố mở đường cho bệnh phát triển nhanh. Do đó, bệnh phát triển mạnh trên đàn heo thịt khi thời tiết khắc nghiệt.

Sau khi xâm nhập qua đường hô hấp vào phổi, vi khuẩn cư trú và nhân lên ở phế nang, sau 12 giờ vi khuẩn H. parasuis bị thực bào nhanh chóng bởi đại thực bào phế nang và sản sinh ra độc tố dung giải tế bào (cytotoxin) vào máu gây bại huyết (septicemia) và hậu quả là gây viêm thanh dịch, viêm màng phổi có sợi huyết, viêm dính sườn, viêm kẻ xuất huyết, viêm đa khớp, viêm màng não có mủ. H. parasuis nhân lên ở niêm mạc phế quản hơn là tế bào có tiêm mao ở đường hô hấp, và H. parasuis có thể gây viêm phổi theo sau nhiễm virus cúm.

6.  Triệu chứng

Triệu chứng bệnh có thể thay đổi tùy theo sức khỏe và khả năng miễn nhiễm của thú, môi trường và mức độ bộc phát của yếu tố gây bệnh.

Thể cấp tính: bệnh xảy ra thình lình trên một số con hoặc nhiều heo. Heo bệnh ốm yếu rất nhanh, thân nhiệt tăng 40-41oC, bỏ ăn, thở nhanh, và một biểu hiện đặc trưng là ho ngắn 2-3 cái, tím bốn chân, viêm khớp, và đi lại khó khăn. H. parasuis tấn công vào màng bao khớp, màng thanh dịch của ruột, phổi, tim và não gây viêm mủ sợi thường hợp hô hấp, viêm màng bao tim, màng phúc mạc và viêm màng phổi có thể gây chết đột ngột. Heo bệnh chết sau 2-5 ngày.

Thể mãn tính: heo bệnh thường nhợt nhạt và phát triển chậm. Tỷ lệ nhiễm bệnh khoảng 10 – 15%. Khi viêm màng bao tim kéo dài có thể gây chết. Cần loại heo bị bệnh mãn tính vì điều trị không có hiệu quả.

7.  Bệnh tích

Bệnh tích chủ yếu là viêm thanh dịch có tơ huyết ở màng não, màng phổi, màng bao tim, phúc mạc, khớp. Những bệnh tích này có thể xảy ra cùng một lúc hoặc riêng lẻ. Viêm có sợi tơ huyết ở màng bao khớp, phổi, màng phổi, màng bao tim, màng bụng, màng ruột, mạch máu nhỏ,…Viêm phổi dính sườn, khớp có dịch vàng, não có dịch tiết chứa mủ và sợi tơ huyết. Viêm não có mủ cũng thường xảy ra.

Trong trường hợp heo chết dạng mãn tính thường gặp kết dính sợi huyết: viêm ngoại tâm có sợi huyết cùng biểu hiện suy tim, lớn tim, thủy thủng phổi, lớn gan và xoang bụng chứa nhiều dịch.

Người ta có thể phân lập H. parasuis thuần từ: dịch khớp, máu tim, dịch nảo tủy (trong trường hợp viêm màng não).

Hình 7.1 Tím tái ở tai và chân
Hình 7.1 Tím tái ở tai và chân


Trường hợp viêm màng não, heo nằm với biểu hiện thần kinh (giãn nhãn cầu và mở rộng các chi, uốn người ra sau)
Hình 7.2 Trường hợp viêm màng não, heo nằm với biểu hiện thần kinh (giãn nhãn cầu và mở rộng các chi, uốn người ra sau)

Viêm sưng các khớp
Hình 7.3 Viêm sưng các khớp

Viêm khớp với dịch khớp vàng
Hình 7.4 Viêm khớp với dịch khớp vàng

Khám nghiệm tử thi heo bệnh Glässers bị viêm màng phổi và viêm màng ngoài tim
Hình 7.5 Khám nghiệm tử thi heo bệnh Glässers bị viêm màng phổi và viêm màng ngoài tim 


Viêm màng phổi
Hình 7.6 Viêm màng phổi

Sự hiện diện fibrin trong viêm phúc mạc và viêm màng ngoài tim
Hình 7.7 Sự hiện diện fibrin trong viêm phúc mạc và viêm màng ngoài tim

8.  Chẩn đoán

8.1 Chẩn đoán lâm sàng

Chẩn đoán bệnh dựa vào tiền sử bệnh trong trại, triệu chứng lâm sàng. Heo có bệnh tích viêm có sợi huyết ở khớp, phổi, màng bao tim, màng bụng.

Cần chẩn đoán phân biệt bệnh Glasser với các bệnh hô hấp và viêm khớp khác:

Bảng 8.1 Phân biệt bệnh Glasser với một số bệnh hô hấp
Mầm bệnh
Triệu chứng
A. pleuropneumonia
viêm màng phổi, xuất huyết và có những vùng hoại tử đặc biệt trên thùy hoành cách mô
B. bronchiseptica
ngứa mũi, hắt hơi, chảy nhiều nước mũi, xương mặt bị teo, méo mó nhiều mức độ khác nhau
Virus gây hội chứng loạn sản hô hấp (PRRSV)
rối loạn hô hấp, chậm tăng trưởng, tăng tỷ lệ heo cai sữa chết và kết hợp với các triệu chứng khác
Bệnh cúm heo influenza virus
sốt cao trong thời gian tương đối ngắn, kém ăn, suy sụp hô hấp như thở khó, ho, chảy nước mũi và có tỷ lệ mắc bệnh khá cao
Bệnh Aujeszky
Tử số cao ở heo con với dấu hiệu thần kinh, có hay không có liên quan đến xáo trộn sinh sản.
Cảm nhiễm  Coronavirus
viêm phế quản phổi cata với biểu hiện sốt, ho và kém ăn trên heo.
M. hyopeneumoniae
bệnh tích khá đặc trưng là vùng gan hóa, tụy tạng hóa mang tính đối xứng trên phổi

Bảng 8.2 Phân biệt bệnh Glasser với một số bệnh khớp
Kiểu viêm khớp
Lứa tuổi nhiễm bệnh
Những biểu hiện chính
Tụ cầu khuẩn Streptococcus spp
1-6 tuần tuổi.
Trong đàn có một vài con bị bệnh với các biểu hiện:
- Què, khớp sưng tấy ở dạng cấp và mãn tính.
- Lợn bệnh run rẩy, khó đứng và có biểu hiện thần kinh do viêm màng não.
Đóng dấu lợn Erysipelothrix rhusiopathiae
1-8 tháng tuổi.
- Què, khớp sưng tấy ở dạng cấp và mãn tính với bệnh toàn thân.
- Do viêm khớp nên lợn ngồi ở tư thế chó ngồi.
- Trên da xuất hiện nhiều đám xuất huyết hình vuông hoặc hình thoi.
Viêm mũi do Mycoplasma hyorhinis
3-8 tuần tuổi
- Què, đôi khi sưng khớp.
- Viêm các màng bao tim phổi, xoang bụng, tinh hoàn với thể cấp hoặc mãn tính (bị >6 tháng)
Viêm phổi do Mycoplasma hyosynoviae
12-14 tuần tuổi.
- Què, bị cấp tính hoặc mãn tính, đặc biệt ở giống siêu nạc và khung chân yếu.
Viêm  do Haemophilus parasuis.
2-12 tháng.
Què, khớp sưng với viêm đa màng serous.
- Khi bị nhiễm trùng máu và thể cấp tính lợn nằm nhiều, da tím tái.
- Khó thở, sổ mũi
Viêm dính màng phổi
Actinobacillus suis
sau 1,5 tháng tuổi
- Què, khớp sưng với viêm đa màng
- Có thể tạo thành ổ áp xe lớn ở mông, bên trong chứa đầy mủ màu trắng
Bệnh thoái hoá khớp
Osteochondroris Osteothrois
4 tháng trở lên.
Què, bị mãn tính nhưng đôi khi bị cấp tính.
- Hay xảy ra ở lợn lớn nhanh, nhiều cơ và thịt nạc.
- Lười vận động, có thể đi bằng đầu gối.

8.2 Chẩn đoán phòng thí nghiệm
Bằng việc nuôi cấy phân lập vi khuẩn từ các mô bệnh (ví dụ như màng ngoài tim, màng phổi). Việc nuôi cấy còn gặp nhiều khó khăn, vì khả năng mọc của vi khuẩn rất kém, nhất là bệnh mãn tính hoặc đã điều trị kháng sinh thì sẽ dễ thất bại trong nuôi cấy. Tuy vậy, phương pháp phân lập hiện nay được xem là tiêu chuẩn vàng (Golden standard) vì sau khi phân lập có thể xác định được serotype đang hiện hành giúp cho việc sử dụng vaccine hiệu quả.

Ngoài ra, còn có thể sử dụng các phương pháp như PCR (Polymerase chain reaction) để phát hiện sự hiện diện của sự hiện diện của vi khuẩn trong các bệnh phẩm. Phương pháp PCR rất hữu ích để xác định vai trò của vi khuẩn gây tử vong. Hiện nay, phản ứng IHA (Indirect hemaglutination) là kỹ thuật được lựa chọn để định chủng vi khuẩn. Còn để xác định kiểu gen, người ta sử dụng PCR và ERIC-PCR (Enterobacterial Repetitive Intergenic Consensus-based PCR). Cả hai phương pháp IHA và ERIC-PCR thì rất quan trọng trong công tác kiểm soát bệnh.

9. Điều trị

Qua kết quả kháng sinh đồ, H. parasuis nhạy cảm với nhiều loại kháng sinh penicillin, amoxicillin, tetracycline, cephalexin, gentamycin. Sự đề kháng của vi khuẩn đối với kháng sinh sẽ xảy ra nhanh chóng khi sử dụng kháng sinh thường xuyên.
Cần điều trị sớm, tiêm kháng sinh với liều cao để thuốc nhanh chóng thấm vào màng não và dịch các mô. Liệu pháp kháng sinh chỉ hiệu quả trên heo bệnh giai đoạn đầu, thuốc có tác dụng làm giảm tỷ lệ chết. Điều trị sớm và kết hợp nhiều biện pháp sẽ cho kết quả tốt hơn. Nên điều trị cho tất cả heo có nguy cơ bị lây nhiễm chứ không chỉ riêng những heo có triệu chứng bệnh. Sau thời gian điều trị bằng kháng sinh bổ sung men tiêu hoá 2 – 3 ngày => tránh loạn khuẩn đường ruột, giúp tiêu hoá tốt hơn.
Để đảm bảo tác dụng và nồng độ kháng sinh cao trong máu việc tiêm nhắc lại là điều hết sức cần thiết. Sự thành công trong điều trị phụ thuộc vào việc phát hiện bệnh và điểu trị kịp thời, cấp nước cho thú kịp thời nếu thú còn uống nược, trộn kháng sinh vào thức ăn, nước uống với mục tiêu điều trị cả mầm bệnh. Tuy nhiên, liệu pháp kháng sinh không loại trừ hết căn bệnh mà chỉ làm giảm biểu hiện bệnh. Kiểm soát bệnh bằng cách chia các nhóm nuôi trong môi trường không khí tốt và duy trì đến khi hạ thịt, nơi không có điều kiện thì kiểm soát tốt nhiệt độ, độ thông thoáng và dùng vách ngăn thú bệnh trong ô chuồng nhất định để giảm tối đa sự phát triển và lây lan bệnh, tiếp tục sử dụng thuốc và nâng cao liều sử dụng, không sử dụng thuốc trong thời gian dài và thường xuyên, giám sát sự đề kháng của vi khuẩn.

Khi kiểm soát bệnh, chia các nhóm nuôi trong môi trường không khí tốt và duy trì đến khi hạ thịt, nơi không có điều kiện thì kiểm soát tốt dùng vách ngăn thú bệnh trong ô chuồng nhất định để giảm tối đa lây lan bệnh, tiếp tục sử dụng thuốc và nâng cao liều sử dụng, không sử dụng thuốc trong thời gian dài và thường xuyên, giám sát sự đề kháng của vi khuẩn. Kháng sinh: Chọn kháng sinh có thể xâm nhập đến dịch não tuỷ và các khớp như sau:

Tiêm kháng sinh:
+ Tulavitryl: 1ml/40 kg thể trọng, 1 liều duy nhất
+ Ceptifi: 1ml/10-15 kg thể trọng, ngày/lần, liên tục 5-7 ngày
+ Tyloco: 1ml/7-10 kg thể trọng, ngày/lần, liên tục 3-4 ngày
+ Marbovitryl 250: 1ml/10-15 kg thể trọng, ngày/lần, liên tục 5-7 ngày
+ VimeSpiro FSP: 1ml/5-10 kg thể trọng, ngày/lần, liên tục 5-7 ngày
+ Spectylo: 1ml/5-10 kg thể trọng, ngày/lần, liên tục 5-7 ngày

Cho uống hoặc cho ăn (nếu còn ăn):
+ Genta-Doxy: 1g/20 kg thể trọng, ngày/lần, 5-7 ngày
+ Tylofos: 1g/40 kg thể trọng, ngày/lần, 5-7 ngày
+ Vime-Linspec 500: 1g/20 kg thể trọng, ngày/lần, 5-7 ngày

Kháng viêm:
+ Tonavet: 1ml/20 kg thể trọng, 1 liều duy nhất
+ Ketovet: 1ml/16 kg thể trọng, ngày/lần, 3 ngày

Trị triệu chứng:
- Heo ho, khó thở, chảy mũi nước:
+ Furovet: 1ml/20 kg thể trọng, ngày/lần, 3-5 ngày
+ Vime Liptyl: 1ml/10 kg thể trọng, ngày/lần, 3-5 ngày
+ Kết hợp Bromhexin: 1ml/10 kg thể trọng, ngày/lần, 3-5 ngày
+ Hoặc dùng Mucostop (để giảm mũi tiêm trên heo) 1g/lít nước uống hoặc 2g/kg thức ăn hoặc 1g/7-10kg thể trọng.

Hỗ trợ:
+ Vime Canlamin: 1ml/5-10 kg thể trọng, ngày/lần, 3-5 ngày
+ Hoặc Vimekat: 1ml/5-10 kg thể trọng, 3-5 ngày/lần,
+ Hoặc Babevit: 1ml/5-10 kg thể trọng, ngày/lần, 3-5 ngày

10. Phòng bệnh

10.1 An toàn sinh học

Vệ sinh tốt chuồng trại, nhiệt độ thích hợp, độ thông thoáng tốt, mật độ nuôi hợp lý, dinh dưỡng phù hợp, cân đối đầy đủ chất, cho ăn bằng thức ăn viên hoặc rưới nước vào thức ăn để hạn chế bụi lúc cho ăn. Nên thực hiện chương trình “cùng vào, cùng ra” có thể đây là phương pháp hiệu quả để kiểm soát bệnh trên những đàn đã nhiễm bệnh. Chú ý quản lí đàn để giảm yếu tố stress. Không nuôi mật độ quá cao, thông thoáng khí tốt, tránh trộn lẫn đàn có nguồn gốc khác nhau. Tăng tuổi cai sữa tạo điều kiện cho heo con tiếp xúc với mầm bệnh để gây miễn dịch cho heo con. Thực hiện định kỳ tiêu độc sát trùng chuồng. Kiễm tra kỹ heo trước khi mua, mua heo về phải cách ly ít nhất 4 tuần, nếu không có biểu hiện bệnh mới cho nhập đàn, trong thời gian này phải đảm bảo đủ dinh dưỡng và chống stress cho heo tốt. Thực hiện tốt quy trình phòng các bệnh phổ biến trên heo: Dịch tả heo, LMLM, tai xanh,... để tránh các nguy cơ kế phát cho bệnh Glässer.

Đối với trại đã mắc bệnh thì tuyệt đối không bán giống, nếu giết mổ thì chở thẳng đến lò mổ, heo nọc không cho phối giống trực tiếp, tốt nhất nên nuôi vỗ béo và heo nái cũng nên loại thải không dùng làm giống, heo con mắc bệnh dùng nuôi thịt, khi hạ thịt nên hủy toàn bộ phổi và các hạch lâm ba phổi, thịt được phép tiêu thụ.

Việc đưa thuốc vào thời kì nguy cơ, như khi có điều kiện bất lợi về thời tiết, chuyển đàn, cai sữa, nhập đàn đối với heo hoặc khi có dịch bệnh có thể giúp phòng bệnh.

Cần điều trị sớm, tiêm kháng sinh với liều cao để thuốc nhanh chóng thấm vào màng não và dịch các mô. Có thể sử dụng một trong các loại thuốc sau liên tục 3 – 4 ngày: Penkana 1lọ cho 30 – 50 kg thể trọng/ngày; Vimexysone C.O.D (tím) 1ml/5kg thể trọng/ngày; Ketovet 1ml/15kg thể trọng/ngày, có thể tiêm trực tiếp vào khớp; Lincoseptryl 1ml/10kg thể trọng/ngày; Vimefloro F.D.P (cặp) 1ml/2 – 4kg thể trọng/ngày. Kết hợp Vime-Liptyl (1ml/15 – 20kg thể trọng) giúp heo giảm đau, hạ sốt, kích thích tim mạch và hô hô hấp.

Sau thời gian điều trị bệnh bằng kháng sinh cần bổ sung men tiêu hoá 2 – 3 ngày để tránh loạn khuẩn đường ruột, giúp tiêu hoá tốt hơn: Vime-6-way 100gr/50kg thức ăn; Vime – Subtyl: 100gr/20kg thức ăn (cho heo từ 1 tháng tuổi); và bổ sung Biotin H AD với liều 1kg/1tấn thức ăn.

Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, định kỳ phun thuốc sát trùng chuồng trại, vật nuôi bằng Vimekon (pha 100gr với 20 lít nước) hay Vime-Iodine (15 – 20 ml/4 lít nước) phun khắp chuồng, định kỳ 3 – 4 tuần sử dụng 1 lần. Dùng một trong các loại kháng sinh sau trộn vào thức ăn cho heo ăn ngừa bệnh: Ampiseptryl (100gr/300kg thể trọng/ngày); Vime – Baciflor: 100 gr/40 – 50kg thức ăn. Thường xuyên bổ sung vào thức ăn đầy đủ dưỡng chất cần thiết giúp heo khỏe mạnh, có sức đề kháng tốt như: Vimix plus: 100gr/120 lít nước, dùng hàng ngày; Vime – Amino: 100gr/100kg thức ăn, cho heo ăn thường xuyên nhằm tăng cường hệ thống miễn dịch giúp heo có khả năng chống lại các tác nhân gây stress.

10.2 Phòng bệnh bằng vaccine

Vaccine chế từ H. parasuis phân lập từ cơ sở giết bằng formalin hay merthiolate (Autovaccine) thường cho kết quả khả quan.

Cần xác định các chủng hiện diện trong trại qua nuôi cấy để chắc chắn là vacxin phù hợp với chủng gây bệnh.

Hiện nay trên thị trường đã có vaccine thương mại phòng bệnh Glasser của một số chủng. Lịch trình tiêm chủng khác nhau với mỗi trong đàn. Khi bị nhiễm H. parasuis được quan sát thấy 1-3 tuần sau khi cai sữa (hoặc đôi khi trong chuồng đẻ), heo nái tiêm phòng 4 và 2 tuần trước khi để đẻ có thể là một lựa chọn. Một số đàn lựa chọn để tiêm chủng cho heo nái và heo con, và mặc dù có một số lo ngại về sự can thiệp miễn dịch mẹ ở heo con tiêm chủng, một vài nghiên cứu cho thấy rằng có thể đạt được kết quả tốt hơn khi heo nái và heo con được tiêm phòng. Đa số đàn heo tử vong do nhiễm H. parasuis tại 4 đến 6 tuần sau khi cai sữa. Giai đoạn này tương ứng với giảm khả năng miễn dịch của mẹ. Trong những trường hợp này, tiêm phòng lợn con cai sữa và 2 tuần sau đó có thể kiểm soát tỷ lệ tử vong.

Một số loại vaccine phòng bệnh Glasser
Hình 10.1 Một số loại vaccine phòng bệnh Glasser

Nếu có copy bài, xin để lại một link sống về trang này. Xin cám ơn
Nguồn: Vetshop VN



Đăng ký nhận bài viết qua Email!

In bài nàyIn bài này Tải xuống dạng PDFTải định dạng PDF


Bản tin mới nhất

Download Tài Liệu CN-TY

 
Trang chủ | Về đầu trang ↑
Vetshop.VN® được thành lập năm 2013
Bản tin chăn nuôi | Chăm sóc chó mèo | Chẩn đoán bệnh | Bệnh trên heo | Bệnh chó mèo | Bệnh gà | Bệnh trâu bò
Thuốc thú y | Dụng cụ chăn nuôi | Thiết bị thú y | Tài liệu chăn nuôi thú y |
Quy trình chăn nuôi | Kỹ thuật thú y | Nuôi thú cưng | Thiết bị chuồng trại | Dụng cụ thú y | Kỹ thuật chăn nuôi | Sách chăn nuôi thú y