Bệnh Nấm Blatomyces Trên Chó Mèo | Vetshop.VN


Bệnh Nấm Blatomyces Trên Chó Mèo

Đăng bởi: | ngày: 16.6.15 Bình luận cho bài viết! | In bài này
Hình 1: Dạng sợi nấm của Blatomyces
Hình 1: Dạng sợi nấm của Blatomyces

1. Căn bệnh học

Bệnh nấm blatomyces là bệnh nhiễm nấm toàn thân gây ra bởi nấm lưỡng hình Blastomyces dermatitidis. Trong tự nhiên, Blastomyces phát triển dưới dạng hệ sợi nấm hoại sinh sinh sản hữu tính, sản xuất bào tử lây nhiễm. Ở nhiệt độ cơ thể, trong các mô sinh vật biến thành dạng nấm men và sao chép vô tính. Chó và người nhiễm thường xuyên nhất với Blastomyces, nhưng mèo, ngựa, sư tử biển, chó sói, chồn, và gấu Bắc cực cũng như sư tử và họ nhà mèo không bị bắt giữ nuôi trong nhà khác như hổ, loài báo và báo tuyết đã phát triển bệnh blastomycosis trong cơ thể. Bệnh nấm blatomyces đã được xác định trên khỉ nâu.

2. Dịch tễ học

Blastomycosis là bệnh chủ yếu ở Bắc Mỹ, nhưng nó cũng đã được xác định ở châu Phi, Ấn Độ, Châu Âu, và Trung Mỹ.

Sự sinh trưởng của sinh vật trong môi trường sống yêu cầu phải có cát, đất có tính axít, và gần nước. Sống gần kênh rạch là một yếu tố nguy cơ cho sự nhiễm trùng bệnh nấm Blastomyces. Mưa hay sương dày đặc xuất hiện tạo điều kiện thuận lợi cho việc phóng thích bào tử nhiễm khuẩn. Tỷ lệ phân phối theo mùa trong các trường hợp như sau: mùa đông (24%), mùa xuân (18%), mùa hè (36%), và mùa thu (22%).

3. Sinh bệnh học

Chó dường như dễ bị nhiễm trùng hơn người. Mèo không thường nhiễm Blastomyces. Bệnh không liên quan về giống, tuổi tác, hoặc bản chất giới tính đã được công nhận trên mèo. Ở chó, con đực nhiễm thường xuyên hơn so với con cái, những chó giống lớn thường bị nhiễm nhiều hơn chó giống nhỏ. Tỷ lệ nhiễm cao nhất là ở chó 2 tuổi; hầu hết các bệnh nhiễm trùng phát triển ở chó 1-5 tuổi.

Sau khi nhiễm trùng Blastomyces phát triển trong phổi, nó phổ biến khắp cơ thể. Vị trí định vị ưa thích của nhiễm trùng trên chó là da, mắt, xương, hạch bạch huyết, mô dưới da, lỗ mũi bên ngoài, não, và tinh hoàn. Vị trí ít bị ảnh hưởng là miệng, lỗ mũi, tuyến tiền liệt, gan, tuyến vú, âm hộ, và tim.

4. Phát hiện lâm sàng

4.1. Chó

Dấu hiệu của bệnh thường xuất hiện trong một vài ngày đến một tuần nhưng có thể thấy rõ ràng khi lên đến một năm, bao gồm: chán ăn, sụt cân, ho, khó thở, bệnh mắt, què quặt, hoặc tổn thương da. Khoảng 40% đến 60% số chó bị sốt 39,4°C (103°F) hoặc cao hơn. Đa số (85%) chó với bệnh nấm blatomyces có tổn thương phổi với tính đặc trưng là khô, âm thanh phổi nghe khó chịu (khàn khàn).

Hình 2: Sung huyết kết mạc, chứng sung huyết mống mắt, phản ứng ban đỏ có nước, và chứng co đồng tử
Hình 2: Sung huyết kết mạc, chứng sung huyết mống mắt, 
phản ứng ban đỏ có nước, và chứng co đồng tử
Hình 3: Viêm màng mạch - võng mạc
Hình 3: Viêm màng mạch - võng mạc
Hình 4:Tổn thương da có thể là thấy bất cứ nơi đâu, mặt phẳng mũi, mặt, và móng chân
Hình 4:Tổn thương da có thể là thấy bất cứ nơi đâu, 
mặt phẳng mũi, mặt, và móng chân...
Có đến 40% chó với bệnh nấm blatomyces có tổn thương ở mắt, phổ biến nhất là viêm màng bồ đào: sung huyết kết mạc, chứng sung huyết mống mắt, phản ứng ban đỏ có nước, và chứng co đồng tử.

Tổn thương da, thấy trong 20% đến 50% của chó với bệnh: loét hệ thống dẫn lưu của chất lỏng có mủ hoặc huyết thanh-máu. Tổn thương da có thể là thấy bất cứ nơi đâu, mặt phẳng mũi, mặt, và móng chân, tay có vẻ là nơi được ưa thích hơn. Viêm màng bồ đào cùng với dấu hiệu hô hấp hoặc bệnh về da nên báo cho bác sĩ rằng một con vật có thể có bệnh nấm blatomyces.

Liên quan đến xương xảy ra đến 30% ở chó bị nhiễm bệnh. Tật đi khập khiễng là dấu hiệu chính ở động vật bị ảnh hưởng và có thể là dấu hiệu duy nhất của bệnh.

Hình 5: Tổn thương thường liên quan đến xương chi  và đặc trưng bởi tiêu xương
Hình 5: Tổn thương thường liên quan đến xương chi 
và đặc trưng bởi tiêu xương

4.2. Mèo

Mèo bị bệnh có tổn thương tương tự như chó, nhưng quá ít mèo đã được đánh giá để có được sự mô tả đặc điểm đáng tin cậy của các dấu hiệu nổi bật. Chứng khó thở, tăng âm thanh phế quản - phế nang, suy giảm thị lực, tổn thương mất nước ở da, và giảm cân đã được phát hiện thường xuyên nhất.
Hình 6: Mèo bị bệnh nấm blatomyces có tổn thương tương tự như chó
Hình 6: Mèo bị bệnh nấm blatomyces có tổn thương tương tự như chó

5. Chẩn đoán

  • Hình ảnh y học: X-quang và siêu âm là những phương pháp có giá trị trong việc phát hiện các tổn thương do nấm ở nhiều cơ quan.
  • Phòng thí nghiệm: Hầu hết các chó có tăng bạch cầu vừa phải (đếm 17.000 đến 30.000 tế bào máu trắng trên µl) với một sự thay đổi nhẹ bên trái, và giảm lympho bào là phổ biến. Chúng thường có globulin huyết cao và giảm albumin huyết. Tăng calci huyết của bệnh u hạt (tổng cộng [bao gồm cộng với ion hóa] canxi huyết thanh = 12,5-17,5 mg / dL), có thể xảy ra mà không có tổn thương xương.
  • Xác định dưới kính hiển vi: kiểm tra dịch hút của các hạch bạch huyết mở rộng và phết kính vùng đặc trưng của tổn thương da hoặc tế bào học của dịch tiết thoát ra.
  • Thử nghiệm huyết thanh học: đo các kháng thể trong huyết thanh, hoặc phát hiện kháng nguyên trong dịch cơ thể từ B. dermatitidis có thể được sử dụng để hỗ trợ trong việc chẩn đoán bệnh nấm blatomyces khi sinh vật không xác định được cụ thể.

6. Điều trị

Liệu pháp kháng khuẩn: 

Kháng khuẩn đồng thời hiếm khi cần thiết.

Amphotericin B ( AMB ): 

Là thuốc diệt nấm có hiệu quả, tác động nhanh chóng để điều trị nhiễm nấm khác nhau, bao gồm bệnh nấm blatomyces. Vì AMB gây độc thận và phải được tiêm tĩnh mạch, nó đã được thay thế bởi itraconazole (ITZ), hiệu quả như nhau và an toàn hơn. Ở chó mà không thể hấp thụ thuốc cấp qua đường uống hoặc không đáp ứng với điều trị bằng ITZ , AMB có thể là một loại thuốc duy trì sự sống. AMB deoxycholate nên được cấp với liều 0,5 mg/kg 2 ngày 1 lần. Việc cấp thuốc chậm trong thời gian từ 2 đến 3 giờ là có khả năng làm giảm độc tính trên thận. Nồng độ urê huyết cần được theo dõi chặt chẽ và ngưng AMB khi nồng độ nitơ urê huyết tiếp cận 50 mg/dL. Một liều tích lũy từ 8 đến 10 mg/kg là cần thiết để chữa bệnh nấm blatomyces. Mèo nên được cấp không quá 0,25 mg / kg 2 ngày 1 lần. Phức hợp lipid ít độc hại khi được điều trị với chó nhiễm trùng nấm blatomyces toàn thân.
Hình 7: Loét thường là ổ, đường kính 1-2,5 cm, và tròn,  với lớp chân bì thiếu máu cục bộ
Hình 7: Loét thường là ổ, đường kính 1-2,5 cm, và tròn, 
với lớp chân bì thiếu máu cục bộ

Itraconazole và Azoles khác:

Trên chó: ITZ là một loại thuốc azole của nhóm triazole. So với AMB, ITZ dễ cung cấp hơn và có ít tác dụng phụ hơn. Vì ITZ được cấp qua đường miệng, chó có thể được điều trị tại nhà. ITZ không được bài tiết trong nước tiểu, vì vậy nó không thể được sử dụng trong bệnh đường tiết niệu. Fluconazole (FCZ) được bài tiết trong nước tiểu và cần được xem xét trong những trường hợp này. Sử dụng dễ dàng, khả năng giảm độc tính, và hiệu quả của ITZ làm cho nó là thuốc được lựa chọn để điều trị bệnh nấm blatomyces. Nhược điểm duy nhất của điều trị bằng ITZ là chi phí tương đối cao của thuốc. Đối với chó, ITZ nên được bắt đầu với liều 5 mg/kg, 12 giờ/1 lần trong 5 ngày để tối đa hóa nồng độ trong máu nhanh chóng. Liều dùng sau đó được giảm xuống còn 5mg/kg/ngày trong phần còn lại của điều trị. Điều trị ITZ nên được tiếp tục trong ít nhất 60 ngày và ít nhất 1 tháng sau khi tất cả các dấu hiệu của bệnh có hồi phục.

Trên mèo: mèo bị bệnh nấm blatomyces đã được điều trị thành công với ITZ với liều 5 mg/kg cho mỗi 12 giờ. Đây là phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả cho hầu hết mèo. Chưa có nghiên cứu nào được thực hiện về hiệu quả của liều lượng thuốc thấp hơn.

7. Các tác hại

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của điều trị bằng ITZ là chán ăn kết hợp với nhiễm độc gan. Nếu ngộ độc xảy ra, thuốc phải được dừng lại cho đến khi chó thèm ăn trở lại và các hoạt động enzyme gan trong huyết thanh trở về dưới 100 U/L. Thuốc phải được tái lập ở nữa liều huyết thanh và men gan phải được giám sát 2 tuần 1 lần.

Viêm da loét phát triển trong 7,5% của chó điều trị với liều 10 mg/kg/ngày ITZ, nhưng nó đã không phát triển trong bất kỳ chó điều trị với liều 5 mg/kg.

Các tổn thương được chữa lành một cách nhanh chóng sau khi ITZ đã được ngừng lại. Tổn thương không tái phát khi ITZ được sử dụng trở lại với liều giảm. Đọc thêm thuốc kháng nấm trên chó mèo

8. Điều trị tái phát

Khoảng 20% đến 25% chó tái phát sau khi điều trị với ITZ, chỉ AMB, hoặc AMB cộng với ketoconazol. Tái phát sau khi điều trị thành công dường như thường xảy ra trong 6 tháng đầu tiên sau khi kết thúc điều trị, nhưng tái phát có thể xảy ra lên đến 3 năm sau khi hoàn thành điều trị. Khả năng tái phát là có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh phổi ban đầu. Tái phát của bệnh có thể được điều trị hiệu quả với liệu trình 60 đến 90 ngày của ITZ. Blastomyces không xuất hiện để phát triển sức đề kháng với ITZ. Tái điều trị có 80% hoặc cao hơn cơ hội chữa bệnh.

9. Phòng bệnh

Hạn chế động vật từ các hồ và sông nhỏ ở những nơi có những con chó khác đã bị nhiễm bệnh. Chó phải tránh xa từ các trang nơi xây dựng, nơi mọi người đã và đang đào bới. Loại bỏ một số cành cây để cho phép ánh nắng mặt trời vào khu vực chuồng chó có thể hữu ích trong việc làm giảm nguy cơ nhiễm trùng.

Nếu có copy bài, xin để lại một link sống về trang này. Xin cám ơn
Nguồn: Vetshop VN
Theo: Infectious Diseases of The Dog and Cat - 4th Edition (Nguyễn Vạn Tín dịch)
Để biết thêm thông tin truy cập http://www.greeneinfectiousdiseases.com



Đăng ký nhận bài viết qua Email!

In bài nàyIn bài này Tải xuống dạng PDFTải định dạng PDF


Bản tin mới nhất

Download Tài Liệu CN-TY

 
Trang chủ | Về đầu trang ↑
Vetshop.VN® được thành lập năm 2013
Bản tin chăn nuôi | Chăm sóc chó mèo | Chẩn đoán bệnh | Bệnh trên heo | Bệnh chó mèo | Bệnh gà | Bệnh trâu bò
Thuốc thú y | Dụng cụ chăn nuôi | Thiết bị thú y | Tài liệu chăn nuôi thú y |
Quy trình chăn nuôi | Kỹ thuật thú y | Nuôi thú cưng | Thiết bị chuồng trại | Dụng cụ thú y | Kỹ thuật chăn nuôi | Sách chăn nuôi thú y