Virus Schmallenberg Lây Từ Động Vật Sang Người ? | Vetshop.VN


Virus Schmallenberg Lây Từ Động Vật Sang Người ?

Đăng bởi: | ngày: 8.4.15 Bình luận cho bài viết! | In bài này

Hơn 10 năm trở lại đây các bệnh do vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng từ động vật lây truyền sang người ngày càng trở nên phổ biến, thậm chí có khả năng bùng nổ thành đại dịch đe dọa sức khỏe và tính mạng nhân loại toàn cầu. Đặc biệt gần đây vi rút Schmallenberg là một loại vi rút gây bệnh trên gia súc lây lan qua trung gian truyền bệnh là muỗi vằn và côn trùng hút máu tại châu Âu đang được dư luận quan tâm. Vậy loại vi rút này có khả năng lây sang người không ? bản chất gây bệnh của nó thế nào ? cách phòng ngừa và đáp ứng khi có dịch ?

Ảnh minh họaThông tin về vi rút Schmallenberg trên thế giới và Việt Nam

Trên thế giới

Vi rút Schmallenberg là tác nhân gây bệnh trên động vật
Viện Nghiên cứu Thú y Liên bang, Đức (FLI), lần đầu tiên phát hiện một loại vi rút thuộc nhóm Orthobunyavi rút trong gia súc ở Đức. Các virútnày được phân lập từ máu của động vật bị nhiễm. Vi rút này có thể được nuôi cấy và sao chép trong tế bào côn trùng và trên một dòng tế bào chuột, vi rút này có quan hệ rất gần với các vi rút Akabane, Ainoa và Shamonda (Hoffmann et al., 2012). Tất cả những vi rút này thuộc nhóm huyết thanh Simbu (Simbu-Serogroup). Các vi rút Akabane, Ainoa và Shamonda chỉ lây chỉ nhiễm gia súc ở châu Á và Úc. Hiện vẫn chưa rõ liệu vi rút Schmallenberg là 1 loài vi rút lạ mới xuất hiện hay là một loại vi rút thuộc giống orthobunyaviruses đã có mặt ở động vật nhai lại ở châu Âu một lúc nào đó rồi nhưng chưađược phát hiện.

Tên chính thức của virus được đặt ngay sau khi ca bệnh đầu tiên được xác định vào tháng 11 năm 2011 tại một thị trấn của Đức tên là “Schmallenberg”. Vào đầu năm 2012, ca bệnh đầu tiên được nghi ngờ tại phía Nam và Đông của nước Anh. Trong những ca bệnh đầu tiên này, bệnh được chẩn đoán sau khi kiểm tra các con cừu con có dị dạng. Schmallenberg virus thuộc một nhóm huyết thanh Simbu của nhóm virus Orthobunyavirus. Nhóm virus này bao gồm nhiều loại virus khác nhau đã có mặt tại châu Á, châu Phi và Úc, nhưng chưa từng được xác định trước đây ở châu Âu. Vì đây là một virus mới xác định nên vẫn còn nhiều khía cạnh của bệnh vẫn còn chưa biết rõ và người ta xác định thời gian đến cần nhiều nghiên cứu hơn nữa.

Khoảng tháng 8-10 năm 2011, nhiều vụ dịch bệnh xảy ra trên các gia súc trưởng thành và biểu hiện lâm sàng bao gồm sốt từ nhẹ đến vừa, giảm đi lượng sữa, chán ăn, tiêu chảy… đã được báo cáo tại Hà Lan và Đức, kết quả kiểm tra các tác nhân gây bệnh thường gặp đều âm tính. Tiếp đó, từ tháng 12 năm 2011, tình trạng sẩy thai và chết non có liên quan đến các bất thường phôi thai, ảnh hưởng chủ yếu trên cừu nhưng cũng có cả dê và các gia súc khác, được xác định tại Hà Lan, Đức và Bỉ.

Một loại virus mới được xác định vào tháng 11 năm 2011 như là một nguyên nhân chịu trách nhiệm cho hai vụ dịch nêu trên. Schmallenberg virus là một tên không chính thức đặt cho nhóm Orthobunyavirus liên quan đến loại Shamonda virus, và cũng chưa có tên chính thức mãi đến tháng 01.2012. Báo cáo lần đầu tiên vào tháng 11/2011 về các vấn đề có liên quan đến loại virus này đối với động vật là gây các didạng bẩm sinh phôi thai và thai chết lưu/ sinh non ở các gia súc, cừu và dê.

Các chuyên gia đa dõi theo chặt chẽ về sự lan rộng của virus: các nhân gây khuyết tật bẩm sinh trên gia súc và động vật nhai lại
Các chuyên gia đa dõi theo chặt chẽ về sự lan rộng của virus:
các nhân gây khuyết tật bẩm sinh 
trên gia súc và động vật nhai lại
Theo Daily Mail, virus Schmallenberg là một loại virus nguy hiểm đang lây lan tại các trại chăn nuôi ở Anh, giết chết hàng ngàn con cừu con và làm dấy lên lo ngại có thể lây sang người. Loại vi rút này cũng gây ảnh hưởng tới các gia súc khác, hiện đã tấn công 74 trang trại ở miền Đông và Nam England. Nhiều nông dân cho biết họ đã bị mất 20% số cừu con của mình kể từ khi virus này xuất hiện ở Anh hồi tháng trước. Schmallenberg có nguồn gốc từ châu Âu, đã gây ảnh hưởng tới 1.000 trang trại tại đây. Khi bị nhiễm Schmallenberg, cừu cái không có biểu hiện gì, nhưng con của chúng sinh ra hoặc sẽ bị chết non, hoặc bị những dị tật không thể sống sót như đầu biến dạng và có biểu hiện cổ xoắn.

Trung gian truyền bệnh là muỗi vằn và các loại côn trùng hút máu

Vector truyền Schmallenberg vi rút đã được xác định. Vi rút này được tìm thấy trong Culicoides obsoletus, dewulfi C. và C. pulicaris, ba trong số năm loài đã được cho thấy là truyền bệnh bluetongue (bệnh lưỡi xanh) và là những loài phổ biến ở Bỉ. Các nhà khoa học Bỉ đã phát triển một kỹ thuật phân tử “microarray” để nhận biết một cách đơn giản và chính xác các loài muỗi này (biting midges).

Yếu tố trung gian truyền lây bệnh là loài muỗi và các loại côn trùng hút máu
Yếu tố trung gian truyền lây bệnh là loài muỗi và các loại côn trùng hút máu
Tuy nhiên theo một số nguồn tài liệu, Orthobunyaviruses là nhóm virus lây truyền và lan rộng thông qua các trung gian truyền bệnh là các côn trùng đốt như ruồi nhuế, muỗi vằn và một số muỗi khác. Mặc dù con đường lan truyền của virus Schmallenberg vẫn chưa xác định chính xác, tiềm năng lan truyền trực tiếp (nghĩa là trực tiếp từ một con vật sang một con vật khác) vẫn còn chưa hiểu biết rõ. Nếu các vector côn trùng đốt là con đường lan truyền chính, lan rộng có ý nghĩa quan trọng thì trong suốt mùa đông sẽ không thể vì khi đó côn trùng đốt thường không hoạt động. Người ta tin rằng virus Schmallenberg lưu hành rộng trong các con cừu và gia súc ở Hà Lan và một phần của phía tây Đức giữa tháng 8-10 năm 2011. Có thể đây là báo cáo đầu tiên về virus đến Anh theo các vector côn trùng thông qua con đường bay theo gió (wind - blown insect vectors).

Tất cả bằng chứng hiện tại cho thấy rằng bệnh mang vào vương quốc Anh từ các con ruồi nhuế/muỗi vằn nhiễm bệnh phun thổi đi qua các kênh mương (?), không tìm thấy bằng chứng xuất phát từ các gia súc vật nuôi nhập khẩu, các nhà nghiên cứu đã truy tìm dấu vết rất chặt chẽ và sẽ tiếp tục làm việc với một số đối tác ở châu Âu và vương quốc Anh để hiểu thêm và bổ sung kiến thức về bệnh này.

Việt Nam

Chưa có thông tin vi rút Schmallenberg gây bệnh ở người cũng như gia súc.

Đặc điểm sinh thái của vi rút Shcmallenberg

Đặc điểm dịch tễ học của vi rút Schcmallenberg

Bệnh do Schmallenberg virus (SV) là một bệnh lý mới đang nổi ở gia súc và vật nuôi đã được phát hiện tại Bỉ, Đức, Hà Lan và Vương quốc Anh. Chúng tương tư như một số tác nhân gây bệnh trên động vật khác, như virus Akabane và virus Shamonda, lan truyền bởi các vector, như là ruồi nhuế/ muỗi vằn (midges), một số loại muỗi và ve khác (ticks). Virus có liên quan đến bệnh nhẹ hoặc trung bình (biểu hiện nhỏ sữa, sốt và tiêu chảy) trên các con gia súc trưởng thành, sẩy thai muộn, khuyết tật trên các gia súc sơ sinh, hay cừu và dê.

Bệnh do Schmallenberg virus (SV) là một bệnh lý mới đang nổi ở gia súc và vật nuôi đã được phát hiện tại Bỉ, Đức, Hà Lan và Vương quốc Anh.
Bệnh do Schmallenberg virus (SV) là một bệnh lý mới đang nổi ở gia súc và vật nuôi đã được phát hiện tại Bỉ, Đức, Hà Lan và Vương quốc Anh.
Bệnh phân bố rộng khắp nước Đức, Hà Lan và miền Trung và Bắc Pháp và gần đây được phát hiện tại Vương quốc Anh, Ý và Luxembourg. Riêng tại Vương quốc Anh, bệnh được xác định vào ngày 22tháng 1 năm 2012,trên 4 nông trại nuôi cừu ở Norfolk, Suffolk và East Sussex. Vào ngày 27 tháng 2 năm 2012, bệnh được báo cáo ở các hạt khác ở khu vực nam England gồm có đảo nhỏ Wight, Wiltshire, West Berkshire, Gloucestershire, Hampshire và Cornwall. Điều đó có thể nó đã được mang mầm bệnh đến phía đông England thông qua ruồi nhuế/ muỗi vằn từ các lục địa ở châu Âu, có thể đã xác định như một nguy cơ trước đây bởi Cục Môi trường, thực phẩm và các vấn dề nông thôn (DEFRA Department for Environment, Food and Rural Affairs) đưa ra.

Đơn vị xét nghiệm về thú y và sức khỏe đông vật (Animal Health and Vetinary Laboratories Agency AHVLA) có một hồ sơ lưu trữ với hầu hết các bản tin cập nhật nhất về Schmallenberg Virus.Các nhà khoa học Anh hiện đang khẩn cấp tìm hiểu cách thức dịch bệnh lây lan để ngăn chặn “thảm họa của ngành chăn nuôi” như dịch lở mồm long móng hồi năm 2001 khiến hàng triệu gia súc bị tiêu hủy. Cơ quan an toàn thực phẩm Anh khẳng địng nguy cơ bệnh lây sang người là thấp và những người tiếp xúc với loại virus này không bị ảnh hưởng bất lợi nào. Tuy nhiên, Liên đoàn Nông dân Anh gọi dịch bệnh này là “thảm họa tiềm ẩn” cho ngành chăn nuôi vốn đang chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế.

Virus Schmallenberg gây khuyết tật trên các gia súc sơ sinh, hay cừu và dê.
Virus Schmallenberg gây khuyết tật trên các gia súc sơ sinh, hay cừu và dê.
Các loại động vật bị nhiễm bệnh: Hiện tại chúng ta biết virus sẽ nhiễm và gây bệnh ở cừu, gia súc và dê. Chúng ta cũng khuyên lưu ý, cảnh giác đến các động vật nhai lại hoang dại và các động vật ngoại nhập, như các động vật có gạc (hươu, nai), hoặc nhóm động vật thuộc Camelidae (lạc đà có bướu hay không bướu hoặc những động vật có bàn chân dày và có hai ngón).

Đặc điểm phân tử của vi rút Schcmallenberg

Dưới kính hiển vi điện tử, hình dạng của vi rút tương tự như của bunyavi rútes khác, vi rút có thể nhìn thấy như là một hạt có màng bao bọc, đường kính khoảng 100 nanomet (1nm = 1 triệu milimet). Màng tế bào bao bọc ba phân đoạn chứa thông tin di truyền.

Các vi rút Schmallenberg được phân lập lần đầu tiên ở Đức vào năm 2011 bởi Friedrich-Loeffler-Institut (FLI) từ máu của những con bò bị nhiễm bệnh. Tên này được dựa trên nguồn gốc địa lý của vi rút (1 làng ở phía Bắc Rhine-Westphalia). Phân tích phả hệ đầu tiêncho thấy bộ gen của vi rút có trình tự tương tự như hầu hết các với Shamonda vi rút trong nhóm Simbu serogrou. Điều này cho thấy vi rút mới này là một vi rút giống như Shamonda trong giống Orthobynyavirus.

Toàn bộ chiều dài của 3 phân đoạn L (6.865nt), M (4.415nt), và S (830nt) của bộ gen vi rút Schmallenberg đã được giải trình trình tự và đăng ký vào Ngân hàng cơ sở dữ liệu Quốc tế (www.insdc.org) theo các mã số HE649912- HE649914.

3 phân đoạn L (6.865nt), M (4.415nt), và S (830nt) của bộ gen vi rút Schmallenberg đã được giải trình trình tự
3 phân đoạn L (6.865nt), M (4.415nt), và S (830nt) của bộ gen
vi rút Schmallenberg đã được giải trình trình tự

Đặc điểm miễn dịch của virus Schmallenberg 

Tính miễn dịch có thể mắc phải một cách tự nhiên chống lại virus SBV. Chúng có thể thay đổi theo mùa của chu kỳ nhiễm, nên sẽ không cho kế thừa ở chu kỳ dịch lần thứ hai vào năm tới, do giai đoạn virus trong máu ngắn (khoảng 4-6 ngày sau khi phơi nhiễm, dài hơn trong các phôi thai bị nhiễm bệnh). Tiêm vaccine là một lựa chọn có thể để phòng bệnh vì một vaccine tương tự như với Akabane virus. Vào tháng 3 năm 2012, các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu sức khỏe động vật Friedrich-Loeffler lần đầu tiên thành công nhìn thấy loại virus Schmallenberg.

Tác hại và nguy cơ đối với sức khỏe con người

Nguy cơ vi rút Scmallenberg gây bệnh ở người

Vào lúc này, một đánh giá về nguy cơ rộng khắp châu Âu bao gồm cả Schmallenberg virus cho biết không thể (unlikely) gây bệnh cho người. Cho đến bây giờ, chưa có một ca bệnh ở người nào được phát hiện ở bất kỳ quốc gia nào và hầu như virus này liên quan chặt chẽ gây bệnh chỉ cho động vật.

Theo Trung tâm phòng chống bệnh tật châu Âu (European Centre for Disease Prevention and Control ECDC), mối liên quan chặt chẽ nhất của virus Schmallenberg là các virus Shamonda, Aino và Akabane, mà chúng chỉ gây ảnh hưởng trên gia súc và vật nuôi. Đến nay, virus hình như không có khả năng gây bệnh trên người. Song, virus Schmallenberg là một thành viên của họ Orthobunyaviruses, trong số đó khoảng 30 loài được biết có gây nhiễm đến con người, nên quan điểm của các nhà chức trách châu Âu là có ít bằng chứng cho thấy virus này có liên quan và gây bệnh cho chúng ta đến thời điểm này. EFSA cho biết xét về mặt di truyền thì hầu như virus không gây bệnh cho con người nhưng vào lúc này đây thì chúng ta không thể loại trừ chúng. Việc ăn thịt của các vật bị nhiễm hoặc uống sữa các vật đó có gây bệnh hay không vẫn còn chưa biết.

Tuy nhiên, dẫu sao đi nữa đây là một virus mới, các nghiên cứu vẫn đang tiếp tục tiến hành xác định có hay không có lên sức khỏe con người (có thể xem thêm chi tiết thông tin từ trang tin website của Health Protection Agency). Các nông dân và bác sĩ thú y được khuyên khi làm việc với các động vật nên thận trọng và vệ sinh khi làm việc trên các gia súc và các sản phẩm bị sẩy thai. Mặc dù một số thành viên của nhóm virus liên quan có thể ảnh hưởng lên con người, song khả năng làm điều đó là tư duy suy luận của giải trình tự gen mà ở đó không có sự hiện diện của Schmallenberg virus. Các phụ nữ mang thai không nên tiếp xúc với cừu và dê ở thời điểm còn non và sơ sinh do nguy cơ phơi nhiễm với các tác nhân gây bệnh khác.

Virus Schmallenberg gây khuyết tật trên các gia súc sơ sinh, hay cừu và dê.
Virus Schmallenberg gây khuyết tật trên các gia súc sơ sinh, hay cừu và dê.

Tác hại của bệnh do virus Schmallenberg trên gia súc

Các dấu hiệu lâm sàng chưa được mô tả và báo cáo trên các con cừu đang trưởng thành hay các con lớn, mặc dù có các bằng chứng nhỏ về giọt sữa của những con cừu tại Hà Lan. Ở bò sữa bị bệnh triệu chứng lâm sàng ban đầu được đặc trưng bởi nhiệt độ cơ thể tăng lên (> 40 ° C), chán ăn, và sản lượng sữa giảm đến 50%. Những triệu chứng này thường là ngắn ngủi biến mất sau vài ngày. Tuy nhiên, nhiễm trùng bào thai dẫn đến biến dạng bẩm sinh nghiêm trọng như cổ xoắn, độ cong bất thường của cột sống, và co rút chân tay hoặc sảy thai hoặc thai chết lưu.

Theo ghi nhận từ Cơ quan Quản lý an toàn thực phẩm châu Âu (EFSA), các dị dạng quan trọng hay gặp nhất của các con vật con sinh ra bị ảnh hưởng là chứng co cứng khớp nặng, chứng vẹo cổ, não úng thủy, tật hàm ngắn, các dị dạng trên não bộ nghiêm trọng. Ngoài ra, còn có dị dạng các chi, cổ và quai hàm, tích tụ nhiều dịch nguy hiểm trong não. Vì các dị dạng này, các con vật có một tỷ lệ cao dẫn đến sinh non, điều này liên đới đến về mặt lâm sàng và cả kinh tế chăn nuôi.

Về thời gian ủ bệnh của các con nhiễm bệnh rồi chết khi sinh ra cung không được ghi nhận một cách chính xác, nhưng các triệu chứng vẫn hay gặp được đề cập ở trên và thường sau 1 tuàn là chết. Theo các chuyên gia thú y cho biết virus Schmallenberg gây ra 2 hình thái bệnh khác nhau cho động vật: (1) Sốt trong thời gian ngắn, tiêu chảy và giảm sản lượng sữa trên những con bò. Các triệu chứng này xảy ra trong thời kỳ mà các vector gây bệnh (muỗi, ruồi cát và ruồi nhuế/ muỗi vằn) hoạt động, trong suốt mùa hè và mùa thu của năm 2011, chủ yếu ảnh hưởng lên các gia súc; (2) Chết non và khuyết tật trên các con cừu, gia súc và dê. Các dị dạng bẩm sinh trên các con cừu, dê và con bê tuổi sơ sinh sẽ có triệu chứng rõ ràng nhất. Trong nhiều trường hợp, các con mẹ không biểu hiện triệu chứng bệnh, các trường hợp này xảy ra từ tháng 12 năm 2011, đặc biệt trên cừu. Các dị dạng chủ yếu hay gặp là vẹo cột sống, não úng thủy, giảm sản tiểu não và phì đại tuyến ức, hoặc chứng co cứng khớp.

Các xét nghiệm cận lâm sàng: các trường hợp nghi ngờ cũng sẽ được lấy mẫu để phân tích về mặt mô học và virus học. Xác định nhiễm trùng bằng phát hiện và giải trình tự virus thông qua real time PCR. Hiện không có xét nghiệm huyết thanh nào nhưng có nhiều công trình nghiên cứu đang tiến hành tìm ra nó. Các động vật còn sống có biểu hiện triệu chứng nghi ngờ thì cần lấy các mẫu máu để phân tích. Các phôi thai chết hoặc sẩy nghi ngờ có virus sẽ được lấy mẫu ở não hoặc ở lách để phân tích. Các mẫu được xét nghiệm bằng RT-PCR đối với Schmallenberg virus cũng đã được phát triển ở Viện Friedrich-Loeffler Institute tại Đức. Một kit thương mại hiện sẵn có tại AdiaVet mà trong đó các đích vùng L của tripartite ssRNA trong bộ gen của virus.

Mối đe dọa của bệnh do virus Schmallenberg đối với vật nuôi và con người ?

Chúng ta nhập khẩu các động vật và các sản phẩm của động vật từ các quốc gia thành viên của Cộng đồng châu Âu (EU Member States) hoặc từ các nước thứ ba. Điều bắt buộc là họ phải tuân theo điều luật nghiêm ngặt của EU để ngăn ngừa bệnh tật vào cộng đồng. Tuy nhiên, sự nhập khẩu này có thể như xem như một nguy cơ nếu tình trạng bệnh tại các quốc gia xuất khẩu đang nghiêm trọng. Chúng ta cũng nhận ra rằng có một điều cơ bản về bệnh là tại nhiều quốc gia không phải lúc nào họ cũng luôn báo cáo cho biết. Chẳng hạn, bệnh chân miệng (hay gọi là bệnh lở mồm long móng) lưu hành nhiều ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ và có nguy cơ là các bệnh lý như thế đi vào Anh bất kỳ lúc nào, như thông qua con đường nhập khẩu không hợp pháp. Cộng đồng châu Âu EU và Anh tăng cường phòng chống các tình trạng nhập khẩu phi pháp như thịt và các chế phẩm từ thịt để giảm nguy cơ. Tuy nhiêu, điều này không thể loai trừ hoàn toàn.

Ngoài ra, nguy cơ bệnh đến Anh có thể gia tăng vì các hoạt động của con người diễn ra hàng ngày (như vận chuyển các sản phẩm nhiễm, dân di biến động) hay hiện tượng tự nhiên (chim di trú, lan rộng qua đường gió, hay do trung gian truyền bệnh côn trùng), và không phải tất cả điều này có thể phòng chống và ngăn ngừa được bởi Cục Môi trường, Thực phẩm và Các vấn đề nông thôn (DEFRA).

Các biện pháp kiểm soát vi rút Schmallenberg

Hiện không có sẵn các vaccine hay thuốc điều trị đặc hiệu loại vi rút gây bệnh này, vì đây là một bệnh mới nên cần có nhữngnghiên cứu thêm để xác định các biện pháp phòng chống phù hợp. Mặc dù ở Việt Nam chưa xuất hiện loại vi rút này, nhưng từ những thông tin thu thập về vi rút Schmallenberg gây bệnh trên thế giới, chúng ta cần có một số biện pháp kiểm soát loại vi rút này như sau:

Tăng cường giám sát bệnh dịch biên giới và quốc tế

Thường xuyên cập nhật thông tin xuất hiện của các vụ dịch bệnh do động vật trên toàn cầu như một cảnh báo sớm để dự báo nguy cơ của vi rút gây bệnh này có thể xâm nhập vào nước ta.

Tại các cửa khẩu, cảng biển và cảng hàng không quốc tế cần có sự phối hợp liên ngành (hải quan, y tế và thú y) tăng cường giám sát bệnh này ở người (nếu có triệu chứng bất thường) và gia súc.

Thực hiện hoạt các biện pháp an toàn để ngăn chặn tình trạng nhập khẩu đúng quy định từ các quốc gia khác để tránh xảy dịch, tốt nhất là không nhập khẩu thịt hoặc vật nuôi từ các quốc gia có lưu hành bệnh.

Cảnh báo phòng ngừa và đáp ứng khi có vi rút gây bệnh xâm nhập

Đây là bệnh do một virus mới, nghiên cứu vẫn đang tiếp tục xác định có hay không có ảnh hưởng lên sức khỏe con người. Tuy nhiên, vẫn cần cảnh báo cho các nhân công làm việc tại trại chăn nuôi thận trọng và vệ sinh tối đa khi làm việc trên các gia súc và các sản phẩm của các động vật; phụ nữ mang thai không nên tiếp xúc với gia súc ở thời điểm còn non và sơ sinh do nguy cơ phơi nhiễm với các tác nhân gây bệnh khác.

Cần có sự phối hợp giám sát và điều tra cũng hoặc nghiên cứu nếu cần giữa ngành y tế và thú y để theo dõi chính xác phạm vi bệnh ảnh hưởng để đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời.
Mô phỏng hệ thống giám sát dịch bệnh trên động vật của Châu Âu.
Mô phỏng hệ thống giám sát dịch bệnh trên động vật của Châu Âu.
Khi xuất hiện xâm nhập của vi rút Schmallenberg kể cả động vật và người, cần hành động nhanh chóng để khống chế sự lây lan mầm bệnh; đồng thời truy tìm dấu vết và kiểm tra bất cứ các nguồn nhập khẩu động vật có nguy cơ gần đây, thông báo trách nhiệm về an toàn sinh học, giám sát và đáp ứng dịch khẩn cấp bằng các biện pháp thích hợp.




Đăng ký nhận bài viết qua Email!

In bài nàyIn bài này Tải xuống dạng PDFTải định dạng PDF


Bản tin mới nhất

Download Tài Liệu CN-TY

 
Trang chủ | Về đầu trang ↑
Vetshop.VN® được thành lập năm 2013
Bản tin chăn nuôi | Chăm sóc chó mèo | Chẩn đoán bệnh | Bệnh trên heo | Bệnh chó mèo | Bệnh gà | Bệnh trâu bò
Thuốc thú y | Dụng cụ chăn nuôi | Thiết bị thú y | Tài liệu chăn nuôi thú y |
Quy trình chăn nuôi | Kỹ thuật thú y | Nuôi thú cưng | Thiết bị chuồng trại | Dụng cụ thú y | Kỹ thuật chăn nuôi | Sách chăn nuôi thú y