Sinh Lý Máu Của Gia Cầm | Vetshop.VN


Sinh Lý Máu Của Gia Cầm

Đăng bởi: | ngày: 8.8.13 Bình luận cho bài viết! | In bài này
Tế bào máu. Ảnh minh họa.
Tế bào máu. Ảnh minh họa.
Máu cùng limpho và dịch mô tạo thành môi trường bên trong của cơ thể, có thành phần và tính chất lý - hoá tương đối ổn định, nhờ đó, các điều kiện cần thiết cho hoạt động sống của tế bào và mô được đảm bảo.

I. Chức năng

Máu thực hiện chức năng vận chuyển, điều tiết dịch thể (bằng hocmon); bảo vệ (bằng bạch cầu, kháng thể...); giữ nhiệt; ổn định áp suất thẩm thấu và độ pH trong cơ thể...

Máu chiếm tỷ lệ 10 - 13%  so với khối lượng cơ thể gia cầm con, khoảng 8,5 – 9,0% gia cầm trưởng thành (gà mái trung bình 8,7%, vịt đẻ 8,6%). Lượng máu của gà nặng 2 - 3,6 kg là 180 – 315 ml, của vịt 4kg là 360 ml, của ngỗng 7 kg là 595 ml, của gà tây 8 kg là 688 ml; nếu bị mất nhanh khoảng 1/4 - 1/3 số máu, gia cầm sẽ chết.

II. Thành phần và tính chất lý học của máu

1. Thành phần máu

 Thành phần máu phụ thuộc vào trạng thái sinh lý của cơ thể, tuổi, giới tính, điều kiện nuôi dưỡng và các yếu tố khác. Trong máu gà con có 14,4% chất khô, của gà trưởng thành có 15,6 - 19,7%.

2. Tỷ trọng của máu

Tỷ trọng của máu gà và ngỗng là 1,050, của máu vịt là 1,056. Tỷ trọng máu có thể tăng lên khi máu bị đặc lại và giảm đi khi bị thiếu máu.

3. Độ nhớt của máu

Độ nhớt của máu gà trung bình bằng 5 (4,7 - 5,5), nó phụ thuộc vào số lượng hồng cầu, nồng độ protein và muối. Tăng độ nhớt thường gặp khi cơ thể bị mất nước, ví dụ khi bị ỉa chảy hoặc khi tăng số lượng hồng cầu. Khi tăng độ nhớt của máu, huyết áp tăng và giảm sự khuyếch tán nước từ mao quản ra các mô. Áp suất thẩm thấu của máu phụ thuộc vào nồng độ các muối tan trong đó, trước hết là muối natri clorua.

4. Áp suất thẩm thấu

Trong máu và dịch mô, áp suất thẩm thấu tạo thành chủ yếu do NaCl, dung dịch 0,9% NaCl, tương ứng với áp suất thẩm thấu máu của động vật có vú được tính là dung dịch sinh lý. Áp suất thẩm thấu gà bằng dung dịch 0,93% NaCl.

5. pH

Độ pH: đối với động vật máu nóng, pH máu thường nằm trong khoảng 7,0 - 7,8%; đối với gà là 7,42 - 7,56.

Theo mức kiềm dự trữ trong máu có thể đoán được sức đề kháng của cơ thể, cường độ của các quá trình sinh lý. Sự dao động lượng kiềm dự trữ trong máu phụ thuộc vào sự thay đổi trạng thái sinh lý của cơ thể. Vào các tháng mùa hè, độ kiềm dự trữ của gà đẻ là 300 - 550 mg%.

6. Protein

Tổng lượng protein trong huyết tương gà Leghorn trắng là 4,09 - 4,64%; ở gà con một ngày tuổi cũng giống này là 3,5 - 4,0%; ở gà tây - 3,95%; ở bồ câu - 2,3%. Lượng protein trong huyết thanh gà tăng lên theo quá trình sinh trưởng, cao nhất ở thời gian đầu của giai đoạn đẻ trứng.

Tỷ lệ anbumin và globulin, đối với gà giống Leghorn phụ thuộc vào lứa tuổi và khả năng sản xuất trứng. Ở gà 1 ngày tuổi, l ượng anbumin là 1,60 - 1,82%, globulin là 1,87 - 2,15%; ở gà chưa đẻ tương ứng là 1,48% và 1,83%; ở gà đẻ là 2,15 và 2,48%.

Tỷ số anbumin/globulin (hệ số protein) phụ thuộc vào lứa tuổi và sức sản xuất của gia cầm. Hệ số protein của gà chưa đẻ bằng 0,96; của gà đẻ là 0,52. Đối với gà con, lượng abumin giảm đi, còn globulin tăng lên.

Ngoài protein ra, trong huyết tương còn có các hợp chất nitơ phi protein; urê, axit uric, amoniac, creatin, creatinin, chúng được gọi chung là nitơ cặn, có nồng độ tương đối lớn trong máu gia cầm (44 mg%). Trong máu gia cầm còn có các chất hữu cơ khác: đường, mỡ, và sản phẩm trung gian của quá trình phân giải các chất này.

7. Đường

Bột đường gồm glycogen và glucoza. Nồng độ gloucoza ở gia cầm cao hơn ở động vật có vú tới 1,5 - 2 lần. Ở gia cầm 30 ngày tuổi, khối lượng glucoza trong máu là 130 - 160 mg%; 70 ngày tuổi: 150 - 300 mg%; 150 ngày: 165 - 175 mg%; hàm lượng glucoza trong máu gà giảm dần theo tuổi. Ở gà, hàm lượng glucoza là 130 - 260 mg%; ở ngỗng và vịt là 150 - 180, ở gà tây là 170 - 210 mg%. Hàm lượng glycogen và axit adenozintriphotphoric ( ATP) trong máu gà con tăng lên theo quá trình phát triển. Ở gà con một ngày tuổi, nồng độ của  ATP là 2,4 - 4,9 mg%, glycogen 24 - 27mg%; ở 150 ngày tuổi tương ứng là 7,8 - 9,4 và 45 - 52 mg%.

8. Lipit

Các loại lipit trong máu tồn tại dưới dạng mỡ trung tính, axit béo, photphatit, cholexterin và các este của cholexterin. Khối lượng mỡ trung tính trong huyết tương gia cầm không quá 0,1 - 0,15%. Ở gà đẻ, hàm lượng lipit lớn hơn ở gà chưa đẻ và gà trống, hàm lượng lipit tăng sau khi rụng trứng. Các hocmon hướng tuyến sinh dục có tác dụng làm tăng  lipit trong máu.

9. Canxi

Lượng canxi trong máu của gà đẻ lớn hơn so với gia súc. Phần lớn canxi trong máu nằm ở huyết thanh (10 - 12 mg%), phần nhỏ trong hồng cầu. Trong huyết thanh, canxi có 2 dạng: bị khuếch tán (60 - 65%) và không bị khuyếch tán (34 - 40%). Sự phân biệt này liên quan đến khả năng của canxi đi qua màng siêu lọc (các màng tế bào).

Phần lớn canxi bị khuếch tán nằm dưới dạng ion (Ca ++) và phần nhỏ (15%) liên kết với các bicacbonat, xitrat và photphat.

Canxi không bị khuếch tán liên kết với protein huyết thanh - anbumin và globulin. Canxi có thể được giải phóng khỏi các liên kết này dưới dạng ion. Lượng canxi không bị khuếch tán trong huyết tương có thể thay đổi phụ thuộc vào hàm lượng protein trong đó, chủ yếu là anbumin.

Hàm lượng ion canxi trong huyết tương và dịch mô tương đối ổn định, phụ thuộc vào lứa tuổi và sức sản xuất của gia cầm, vào lượng canxi trong khẩu phần thức ăn. Ở gà chưa đẻ, trong máu có 9 - 12 mg% canxi. Trong huyết tương gà đẻ có trung bình 20 - 26 mg% canxi. Trong thời gian trứng rụng, khi có tác động của hocmon tuyến yên và buồng trứng, lượng canxi có thể tăng lên tới 35mg%. Sau khi đẻ trứng, lượng canxi trong máu giảm xuống 12 - 15mg%.

Trong máu gà mái hậu bị, hàm lượng canxi không quá 12mg%, nhưng sẽ tăng dần cho tới khi bắt đầu đẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng tăng hàm lượng canxi trong máu gà trước và trong giai đoạn đẻ là do tăng canxi không bị khuyếch tán.

Ở gia cầm non, hàm lượng canxi trong máu thay đổi không lớn. Trong huyết thanh vịt 5 - 15 ngày tuổi, lượng canxi không quá 11 mg%, sau đó giảm xuống đến 9,6 mg% và thay đổi không đáng kể ở các giai đoạn sau. Khi trong khẩu phần thức ăn thiếu canxi, hàm lượng canxi trong máu gà con giảm xuống nhanh.

10. Photpho

Photpho trong máu gia cầm thường ở dạng các hợp chất hữu cơ và vô cơ. Tỷ lệ giữa hai dạng này  là 8: 1 - 10: 1.

Photpho  vô cơ hầu  hết nằm trong huyết  tương  và phần  lớn ở dạng  ion.  Hàm lượng photpho vô cơ trong huyết thanh gia cầm thay đổi tương đối lớn, phụ thuộc vào cường độ trao đổi chất và photpho trong thức ăn. Người ta nhận thấy có sự giảm dần nồng độ photpho trước thời kỳ sinh sản.

Photpho hữu cơ gồm photpho lipit, photpho tan trong axit và photpho nucleotit. Ngoài ra, còn có photpho của axit phitin trong hồng cầu có nhân và photpho của  ATP.

Ở gà con 5 - 90 ngày tuổi, lượng photpho tổng số trong huyết tương là 11,03 - 18,80mg% (photpho vô cơ 7 - 8 mg%), ở gà, vịt, gà tây, ngỗng 75 - 80 mg%.

Gần đến thời kỳ thay lông, hàm lượng photpho giảm xuống nhanh. Trước và trong thời gian đẻ trứng, lượng photpho tổng số trong máu tăng lên.

Cần thận trọng khi dùng các chỉ số nồng độ Ca, P trong máu để đánh giá tình trạng dinh dưỡng các nguyên tố này của gia cầm vì chúng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và có biên độ dao động rất lớn.

11. Natri

Trong máu gia cầm có nitri clorua, phân ly ra thành cation Na + và anion Cl-. Cation K+ có một lượng nhỏ trong huyết tương. Nồng độ các ion này trong huyết tương gia cầm cũng tương tự như ở động vật có vú. Ion natri và clo trong huyết tương nhiều hơn, còn ion kali trong hồng cầu nhiều hơn.

12. Bicacbonat

Như trên đã nói, các bicacbonat và photphat của natri và kali tham gia vào thành phần các hệ thống đệm của máu, giữ cân bằng axit - kiềm. Việc thải các chất thừa, chủ yếu là NaCl, là do thận, song ở gia cầm c ường độ thải ion Na +  qua thận kém hơn so với động vật có vú. Vì vậy , khi lượng muối này quá nhiều, nồng độ natri trong máu tăng lên, dẫn tới rối loạn hô hấp, hạ huyết áp, và co giật... gia cầm bị ngộ độc muối th ường chết trong vòng vài phút. Vì vậy, cần hết sức chú ý đến nồng độ NaCl trong thức ăn cho gà, nhất là trong bột cá.

13. Các thành phần hữu hình của máu

Số lượng hồng cầu trong 1mm3 máu của gà và vịt trung bình là 3,5; của ngỗng - 3,3; của gà tây - 2,7 triệu. Ở gà con, số lượng hồng cầu thay đổi theo tuổi: 3 giờ sau khi nở ra là 2,8 triệu; đến 3 ngày tuổi - 2,23; 32 ngày tuổi - 2,28; 82 ngày tuổi - 2,79 triệu và đến 3 - 4 tháng tuổi số lượng hồng cầu đạt gần tới mức của gia cầm trưởng thành. Hồng cầu ở cá thể đực nhiều hơn ở cá thể cái.

Số lượng hồng cầu thay đổi phụ thuộc vào mùa. Vào mùa xuân – hè, số lượng hồng cầu tăng hơn so với thu - đông. Số lượng hồng cầu trong máu tăng giảm phụ thuộc vào chế độ nuôi và sức sản xuất. Trong khẩu phần, thức ăn có nguồn gốc động vật làm cho số lượng hồng cầu tăng lên. Khi hấp thu nhiều nước, máu loãng ra làm giảm số lượng hồng cầu và ng ược lại khi thiếu nước, máu đặc lại làm tăng số lượng hồng cầu. Nguyên nhân giảm hồng cầu và huyết sắc tố lâu dài (trong tr ường hợp thiếu máu) có thể là do trong thức ăn thiếu sắt và đồng. Thiếu máu có thể do mất nhiều máu hoặc do hồng cầu bị phá huỷ vì bị nhiễm độc, chức năng tạo máu yếu...

Ở gà trưởng thành, hàm l ượng huyết sắc tố là 12,5 - 16,6 g%, ở gà con đến 10 ngày tuổi - 6,7 g%; đến 21 ngày tuổi 9,1 - 9,3 g%; đến 42 ngày tuổi 9,6 - 9,7 g%; đến 84 ngày tuổi 9,7 - 10,1 g%; ở vịt 13,4 - 16,7 g%; ở ngỗng 15,0 - 16,6 g%; ở gà tây 13,3 - 16,6 g%.

Ở gia súc, 1g huyết sắc tố có thể liên kết với 1,34 ml oxi, ở gia cầm là 1,4 - 1,41 ml. Biết hàm lượng huyết sắc tố trong máu có thể xác định dung l ượng oxi của máu, tức là khối l ượng oxi lớn nhất có thể liên kết với 100 ml máu.

Số lượng bạch cầu trong máu ít hơn rất nhiều so với hồng cầu (15 - 35.000/mm3). Tiểu cầu trong máu gia cầm ít hơn hẳn so với gia súc.

III. Tạo máu

Thời gian tồn tại trung bình của hồng cầu gia cầm từ 90 - 120 ngày, của bạch cầu từ 5 - 7 ngày . Có loại bạch cầu chỉ sống tất cả có vài giờ. Nhưng bình thường số lượng tế bào máu của gia cầm tương đối ổn định.

Những cơ quan tạo máu gồm: tuỷ xương, lá lách, mô limpho và các thành phần lưới nội mô. Ở giai đoạn bào thai, gan cũng tham gia vào quá trình tạo máu.  Ở tuỷ đỏ của lách xảy ra quá trình phân huỷ hồng cầu. Hồng cầu còn phân huỷ cả ở gan. Phân huỷ hồng cầu ở các cơ quan này diễn ra bằng phương pháp thuỷ phân trong các tế bào của hệ lưới nội mô. Khi đó từ huyết sắc tố, sắt được giải phóng ra khỏi tế bào. Một phần sắt được oxi hoá, chuyển vào sắc tố bilirubin, sắc tố này được thải ra khỏi cơ thể cùng với phân và nước tiểu. Phần sắt còn lại tích tụ trong tế bào của các cơ quan tạo máu và có thể dùng để tạo ra các hồng cầu mới.

Ngoài chức năng tạo máu, lách còn giữ vai trò dự trữ máu, nhờ cấu tạo hợp lý của hệ mạch máu tại đây.



Đăng ký nhận bài viết qua Email!

In bài nàyIn bài này Tải xuống dạng PDFTải định dạng PDF


Bản tin mới nhất

Download Tài Liệu CN-TY

 
Trang chủ | Về đầu trang ↑
Vetshop.VN® được thành lập năm 2013
Bản tin chăn nuôi | Chăm sóc chó mèo | Chẩn đoán bệnh | Bệnh trên heo | Bệnh chó mèo | Bệnh gà | Bệnh trâu bò
Thuốc thú y | Dụng cụ chăn nuôi | Thiết bị thú y | Tài liệu chăn nuôi thú y |
Quy trình chăn nuôi | Kỹ thuật thú y | Nuôi thú cưng | Thiết bị chuồng trại | Dụng cụ thú y | Kỹ thuật chăn nuôi | Sách chăn nuôi thú y